NHỮNG BÀI
THƠ TÌNH
Đỗ Bình
Cuối thế kỷ trước có một thi sĩ tặng tôi tập thơ và muốn tôi có đôi dòng cảm nhận. Tập thơ in đẹp
lời thơ lãng mạn nhẹ nhàng, ý thơ sâu
sắc. Ngôn ngữ trong thơ là những hình tượng đầy màu sắc của hội họa ẩn vào con
chữ vọng lên từ đáy tim. Nhà thơ đã nói lên tiếng lòng bằng cảm súc thật nên
không dùng sáo ngữ, cường điệu cố nặn những những hình ảnh giả tạo trong thơ ,
như loài bướm lượn cành hoa thường thấy trong những lời tán tụng tình yêu. Có
lẽ thi sĩ quá yêu thơ mình nên đã đắm hồn vào thơ để sống với những hình ảnh
vần điệu trong mộng tưởng, tận hưởng cái mật ngọt đắng cay của tình yêu đầy màu
sắc quyến rũ. Đây là những bài thơ tình nửa hư nửa thật tạo cho không gian
trong thơ bồng bềnh mờ ảo, dẫn người đọc bước vào một thế giới mộng mị nơi đó
có hai mảnh hồn yêu nhau say đắm. Đọc những bài thơ tình nồng thắm trong thi
tập lòng tôi xao xuyến, thương cảm cho cuộc tình lãng mạn của hai kẻ yêu nhau
bằng tâm tưởng nhưng lại gặp nhau rất muộn màn! Tôi bỗng cảm hứng đã làm một
bài thơ như chia sẽ nỗi thương cảm của mối tình thi sĩ trong thi tập nên đặt
tựa là: “Tình Chỉ Là Mơ”. Sau đó lại phóng hồn hư cấu thêm bài thơ “Cõi
Tình”đẩy tác giả và nàng thơ vào cõi mê cho tình thơ sắc màu!
Từ ngàn xưa Thơ là ngôn ngữ thật thà của con tim
nên tác giả không thể che dấu được khi viết lên con chữ diễn tả nỗi lòng của
mình. Ở đây, trong trang thơ những con chữ đã bộc bạch lời của kẻ lỡ vướng vào
lưới tình nên trăn trở viết thành những vần thơ. “Thi sĩ và Nàng thơ” cả hai tâm hồn đầy lãng mạn, họ yêu nhau qua
thơ nên lạc vào mê lộ nên vướng cảnh oan trái vì hai người đều đã có gia đình!
Tôi chưa hề quen biết người trong thơ nhưng lại thương cảm cho nàng qua cách
diễn đạt tài tình của thi sĩ, phải chăng nàng cũng biết làm thơ nên đã yêu thi
nhân?
Vì cảm hồn thơ của thi nhân tôi đã trân
trọng giới thiệu thi tập với các bạn văn nghệ ở Paris, và có nhờ vài người bạn
là nhạc sĩ phổ nhạc giúp vì hiếm gặp được những bài thơ tình hay và độc đáo như
thế. Nhưng thuở ấy trên các tạp chí, những diễn đàn đã xảy ra những trận bút chiến hãi hùng của những người
nổi tiếng ở hài ngoại , mà tác giả tập thơ đang bị kéo vào trận bút, do đó đã
làm ngần ngại những nhạc sĩ đồng cảm muốn phổ nhạc thơ ông! Ngày trước tôi có
học nhạc và đã viết một số ca khúc cho mình, cho quê hương, nhưng không dám phổ
thơ của các bạn vì sợ không phổ được cái tinh hoa trong thơ! Mang thi tập về
nhà lòng tôi cứ bâng khuâng, chẳng biết làm sao để những vần thơ hay này được
nương cánh nhạc bay cao lan toả đến công chúng! Có lẽ sự băn khuăn của tôi hơi
thừa vì thật ra một bài thơ hay tự nó đã có giá trị lâu dài. Còn thơ được phổ
nhạc phải chăng là “muốn đem thêm chút nghệ
thuật âm thanh vào trong thơ làm nổi bật hình ảnh ý thơ đầy sắc màu tính nhạc
theo nhiều giai điệu trầm
bổng”?
Một bài thơ phổ thành ca
khúc hoàn hảo rất khó, vì bài thơ được phổ sẽ không bị cắt những chữ làm mất
hình ảnh câu, hụt ý nghĩa của tứ thơ. Nhưng đâu phải bài thơ nào cũng chuẩn
luật, cũng có tính nhạc! Có những bài thơ câu chữ thừa, hoặc những câu chữ bị lập
lại vì trùng ý, trùng nghĩa ở những đoạn trên. Do đó nhạc sĩ cần phải cắt xén
câu chữ, sắp xếp lại cấu trúc giai điệu để hình nốt vút theo từng cung bậc của
ngữ nghĩa thành tác phẩm. Những ca khúc VN được gọi
là hay thường có “lời” hay, “ý ca từ ” đẹp như thơ. Tuy nhiên, trong số đó cũng
có những bài thơ ngôn ngữ thơ mộc mạc, tứ thơ bình thường, nhưng được người
nhạc sĩ có tài phổ sẽ làm tăng giá trị bài thơ trở thành ca khúc hay vì nhạc sĩ
đã cắt xén, ráp nối câu chữ lời thơ thành ca từ nương theo tính nhạc của bài
thơ để phổ. Nhưng cũng không ít những bài thơ rất hay “bị phổ” cho lấy có, tác
giả chẳng để ý đến lời thơ, ẩn ý trong thơ mà phổ quá nhanh, vội vã để thành
bản nhạc nên thiếu chất nghệ thuật làm giảm giá trị bài thơ!
Trong kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng qua một
vài bài thơ, ít ca khúc nhưng những sáng tác đó đã để cho đời những áng thơ hay
những giai điệu tuyệt vời: Thi sĩ Vũ Đình Liên, Thi sĩ T.T.KH, thi sĩ Hữu Loan,
Thi sĩ Linh Phương… Phía âm nhạc: Nhạc sĩ Đặng Thế Phong, Lê Trạch Lựu, Đoàn
Chuẩn& Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh, Lê Hoàng Long, Hiếu Nghĩa, Dzũng Chinh,
Nguyễn Mỹ Ca, La Hối, Nguyễn Ánh 9....vv….Họ là những nhạc sĩ sáng tác thực tài
mà trời đã ban cho một năng khiếu âm nhạc đặc biệt để thẩm thấu những nét độc
đáo của âm thanh kết thành giai điệu đẹp. Sáng tác một ca khúc, nhạc sĩ không
cần vận dụng những lý thuyết hàn lâm quá phức tạp trong âm nhạc, trời đã cho họ
những ưu điểm từ trong vô thức đã có một giác quan rất bén nhạy chứa sẵn lý
thuyết âm nhạc trong cảm hứng khi sáng tác. Đối với những
nhạc sĩ đã sáng tác chỉ cần một vài ca khúc để đời là mãn nguyện. Nhưng nếu
nhạc sĩ sáng tác hàng trăm ca khúc và có nhiều bài hay thì đó là những người có
tài. Tâm hồn nhạc sĩ phải thật phong phú mới làm nổi nhiều nhạc phẩm hay, nếu
không chỉ là số lượng dù viết hàng trăm ca khúc! Có những thi sĩ làm hàng trăm
bài thơ mà người đời cũng chẳng biết đến, hoặc nhớ một câu! Nhưng nếu người đời
chỉ nhớ vài bài thì cũng làm cho tâm hồn
thi sĩ ấm áp. Cũng có những ca khúc
nghe qua chẳng gợi lại trong lòng người thưởng thức một chút ấn tượng thì ca
khúc đó sẽ bị chóng quên! Phải chăng giá trị đích thực của nghệ thuật vẫn là
hướng về chân thiện mỹ? Thời gian trôi đi, người nghệ sĩ dù có bị người đời vô
tình quên tên tác giả, hay người đời “cố tình quên” thì họ vẫn cống hiến cho
đời những tác phẩm. Những tâm hồn phụng sự cho những giá trị cao đẹp đều tuyệt
vời!
Trong cuộc sống đầy bon chen
vội vã của thế giới vật chất hôm nay, có lẽ chỉ có Tình Yêu là đáng qúy vì
trong đó có cả “tình lứa đôi.”
khi đọc những trang thơ tình của người bạn thơ hồn tôi bỗng dạt dào cảm xúc hồi
tưởng lại cái hồn thơ của thuở học trò đầy hương thơm mộng mị, tưởng đã chìm theo thời tuổi xanh!
Nhân dịp có người bạn là Nhà báo, Nhà Biên khảo GS Đặng
Văn Nhâm ở Đan Mạch qua
thăm Paris và đến nhà ở chơi với tôi. GS Đặng Văn Nhâm là tác giả nhiều bộ sách biên khảo như Dại Từ Điển Đan Việt,Tự
Điển Báo Chí, Chính Trị, và Văn Học..vv…Anh
còn là một họa sĩ vẽ tranh biếm họa trên các tạp chí Sài Gòn năm xưa vào cuối
thập niên 50 đầu 60. GS Đặng Văn Nhâm kiến thức rất uyên bác, anh có khả năng
viết trong ngày cho nhiều tờ báo với nhiều đề tài khác nhau mà vẫn giữ được chất
lượng.
Ngày đó, chúng tôi tổ chức đêm
họp bạn văn nghệ quy tụ nhiều khuôn mặt trong giới trí thức văn nghệ sĩ ở Paris.
Mở đầu, một số bằng hữu đã giới thiệu những sáng tác mới của mình hoặc trình
bày một đề tài văn học. Để tham gia trong chương trình tôi đem tập thơ của
người bạn phương xa gởi tặng ra giới thiệu, trích đọc vài bài thơ tiêu biểu
trong thi tập. Mọi người đều lắng nghe và khen thơ hay, nhưng có lẽ ít ai hiểu
những ẩn tình ngang trái trong những bài thơ! Để kết thúc phần giới thiệu về
thi tập, tôi đã đọc bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ” của tôi viết tặng tác giả như sự
đồng cảm giữa những người làm thơ sống trong cõi thơ.
Trong văn học người ta thường ví đóa hoa là phái đẹp, vì cánh hoa mong manh, có muôn sắc màu rực rỡ, nhất là
hoa lại chóng tàn. Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu nên được các văn nghệ sĩ
ca tụng. Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
(1889-1939), đã diễn tả qua câu thơ:
“Cái
giống yêu hoa giống lạ đời,
Mắt
xanh chưa lọt đã mê tơi.”
Tản
Đà
Trong bài thơ “Chỉ Là Mơ”tôi ví “nàng thơ“ trong thi tập của
thi sĩ là hoa, vì tình yêu đã làm tâm hồn nàng trở nên sầu úa như đóa hoa thiếu
nắng! Trong thiên nhiên, một cành hoa dù cho hương
thơm sắc màu rực rỡ nhưng thiếu nắng lá sẽ kém tươi tốt, cánh hoa bị nhạt màu.
Câu thơ: “Như mất nửa hồn theo áng mây”. Trong thi ca áng mây là ngôn ngữ hình
tượng mang sắc màu hội họa, biểu tượng của sự tự do. Mây là những hạt nước li
ti kết tinh bồng bềnh như giải lụa muôn sắc bay trên trời. Hình dáng mây thay
đổi theo gió nhìn rất đẹp, nhưng luôn cao xa không với tới! Ở đây mây tượng
trưng cho thi sĩ, tác giả thi tập, kẻ đã bước vào vườn tình đầy trái cấm!
CHỈ LÀ MƠ
Thơ
thẩnvì, đóa hoa* thiếu nắng,
Khép mi cho lòng đỡ ngất ngây!*
Bỗng dưng ta thấy đời im lặng!
Như mất nửa hồn theo áng mây!*
Nếu lỡ đã say mà quên lối?
Thì đành ôm chút mộng hờ thôi.
Tình, chỉ là mơ sao bối rối?
Quay đi …hồn vướng mãi nụ cười!
Đỗ Bình
Tan
buổi sinh hoạt, khi ra về, giáo sư Nhâm mới cho tôi biết chuyện tình trong thơ
của tác giả mà tôi làm thơ tặng đó là chuyện tình thật, tác giả không vết hư
cấu! Dù được nghe kể những ẩn tình về của cuộc tình tác giả thi tập, nhưng hồn
tôi vẫn rung động những bài thơ hay, tôi
đẩy cảm xúc lên cao độ nên vẫn làm thêm bài Cõi Tình, như thể hiện sự đồng cảm với tác giả trong sáng tác, đó chỉ là một phần hư cấu của thơ, mà đã là thi nhân
thì chẳng có ai làm thơ lại không đi giữa cõi hư và thực?
Cõi Tình
Chiều cuối thu lá vàng bay khắp lối
Dìu em đi trong vạt nắng xanh xao.
Tóc em bay thoảng mùi hương cỏ nội,
Tình trao nhau…ôi trái cấm ngọt ngào!
Em chợt đến như cuồng phong bão nổi,
Trời bao la ta mắc cạn nhánh sông!
Dựa vai nhau hai mảnh hồn buộc vội
Ðời phù du xin giữ chút tình nồng.
Vui em nhé, dù non cao tuyết phủ,
Quên nẻo về hồn trượt xuống vực sâu,
Cứ mặc ta nơi đáy thẳm mịt mù,
Thành sương khói hóa vần thơ hư cấu.
Tình tuyệt diệu thắm nụ hôn khờ dại,
Ta vì em, đành gục ngã bên đời
Dẫu ngàn sau hồn hút bóng xa xôi,
Ta vẫn nhớ …màu môi em đắm đuối.
Đỗ Bình
Dù nghe kể nhưng tôi vẫn nghĩ:
“ Có lẽ họ đang chống nhau trên lãnh vực văn bút nên khắt khe
chăng?”
Tôi tự nhủ: “Ở trên đời có nhiều điều nhìn
thấy cũng chưa chắc đúng, huống chi chỉ nghe đồn. Làm sao có thể hiểu hết sự bí
ẩn trong tâm hồn con người, nhất là tâm hồn thi sĩ là một cõi vô tận!”
Rabindranath Tagore người Ấn Độ, là nhà thơ của
tình yêu, ông cũng là nhà văn, triết gia, họa sĩ, đạo diễn, nhạc sĩ, nhà giáo
dục. Nhà đại nghệ sĩ đã được giải thưởng Nobel 1913. Ông quan niệm về tình yêu:
“Tình
yêu là sự toàn thiện của tâm thức, ta không yêu vì ta không hiểu, hay nói đúng
hơn, ta không hiểu vì ta không yêu ”
Trong thơ văn cũng như ngoài
đời cũng có những mối tình Nghệ sĩ rất lãng mạn và đẹp. Thi sĩ Xuân Diệu người
được mệnh danh là con chim đầu đàn trong dòng thơ Tình lãng mạn của thế kỷ
trước. Bài thơ Xa cách viết về tình yêu lứa đôi vẫn còn lưu truyền trongvăn học mãi hôm nay:
Xa Cách
“Có một bận em ngồi xa
anh quá
Anh bảo em ngồi xích
lại gần hơn
Em xích gần thêm một
chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích
gần thêm chút nữa.
Anh sắp giận. Em mỉm
cười, vội vã
Đến kề anh, và mơn
trớn: "em đây!"
Anh vui liền, nhưng
bỗng lại buồn ngay.
Vì anh nghĩ: thế vẫn
còn xa lắm.
Đôi mắt của người yêu,
ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán
của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc
yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi
tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: chung
một đời, một mộng.
Em là em, anh vẫn cứ là anh.
…."
Xuân
Diệu
Thi sĩ Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào
Thơ Mới. Thơ của ông rất trữ tình lãng mạn, ý thơ phóng khoáng mang chút tư
tưởng Tây Phương nhưng vẫn giữ nét truyền thống luân lý Đông Phương. Bài thơ
Một Mùa Đông là một bài thơ đặc sắc, thanh thoát, giàu nhạc điệu được lưu
truyền trong văn học mãi đến hôm nay. Bài thơ viết về một câu chuyện tình dang
dở có thật của đời ông. Chuyện tình đẹp và trong sáng đó là nguyên do thúc đẩy
nguồn cảm hứng trong thi sĩ dạt dào để hoàn thành một tác phẩm trữ tình để đời.
Chuyện tình như một bài thơ về cuộc tình của chàng thi sĩ với một nữ sinh xinh
đẹp của đất Hà Nội thuở ấy. Nàng thơ sau này trở thành một danh nhân của Việt
Nam, và Thế giới. Bà là điêu khắc gia nổi tiếng trên thế giới và là thành viên
của Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà
được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ
điển Larousse.
Một
Mùa Đông
“Em là gái trong khung
cửa,
Anh là mây bốn phương
trời;
Anh theo cánh gió chơi
vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.
Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân
…
Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu,
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo,
Cùng cười những chuyện thế gian đau.
Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.
Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay. ”
Lưu Trọng Lư
Bốn câu thơ cuối nhà thơ đã diễn
tả sự tan vỡ tình yêu đến tột cùng! Nhưng đó chỉ là tưởng tượng vì quá nhớ nàng
:
“ Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay..”
Câu thơ tình tuyệt vời!
Dù được nghe anh Nhâm kể về sự
thật của cuộc tình, nhưng tôi vẫn nghĩ có lẽ cái nhìn của anh đứng trên quan niệm đạo đức quy tắc chuẩn mực của xã hội nên rất nghiêm
khắc, mà không mang tâm hồn thơ đầy mơ mộng nhưng trong đó có chứa sự bao dung
tôn trọng sự khác biệt đối với tha nhân như tôi! Chẳng thế mà ngòi bút của anh
sắc hơn gươm đao nên dễ làm người bật máu. Có lẽ vì bản tính khó kăn đó, nên
anh rất ít bạn thân! Cho dù anh thích giao du bằng hữu
bốn phương. Những người bạn của tôi ở Paris đều qúy trọng kiến
thức uyên bác và tài năng sáng tác của anh, nhưng chẳng ai dám lại gần vì vẫn
cảm thấy ngần ngại cây bút lành lạnh của anh! Giáo sư Nhâm rất qúy tôi, xem tôi như một người em nên tặng cho tôi cây bút
Mont Blanc, anh nói:
“Cây bút này như tấm
lòng của tôi để viết những điều tử tế.”
Nhưng từ những năm sau này anh vì bận rộn viết sách nên ít liên lạc với
tôi! GS Đặng Văn Nhâm qua đời năm 2017.
Năm 1997 tôi chuẩn bị in tập thơ “Bóng Quê.” Ngày đó Văn Bút
VN Hải Ngoại vẫn còn bị tách làm hai, giáo sư Đặng Văn Nhâm dang làm chủ tịch
Văn Bút Hải Ngoại. Anh Nhâm muốn giúp tôi mang tập thơ qua Mỹ in, nhưng tôi đã
được vợ chồng người bạn thân
cũ là thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật và Nữ sĩ Nguyễn Thị
Vinh ở Nauy lại muốn tự tay chăm sóc trình bày và in ấn
tập thơ của tôi tại Nauy. Đây là điều tế nhị vì nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật&
Nguyễn Thị Vinh đang sinh hoạt cùng nhóm Văn Bút VN Hải Ngoại với người thi sĩ
tặng tôi tập thơ, họ đều chống anh Nhâm. Nguyễn Hữu Nhật và tác giả tặng thơ
cho tôi cả hai đều là chủ bút một tờ báo và làm thơ rất hay.
Bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ”và bài thơ “Cõi Tình” tôi chọn đưa
vào in trong thi tập với lòng yêu thơ. Tôi thường làm thơ về quê hương, về thân
phận con người, nay làm được những bài thơ về tình yêu lứa đôi lãng mạn của tha nhân tôi cảm
thấy vui, tập thơ sẽ có thêm màu sắc. Tôi cho in vì chỉ muốn ghi lại trên sách
vài bài thơ tôi thích ở một giai đoạn mà khá nhiều bằng hữu tôi đang bút chiến.
Thuở ấy tôi đứng bên ngoài những cuộc bút chiến nên tôn trọng những suy tư, và
quan niệm riêng của mỗi người. Tôi chọn lựa một thái độ đứng giữa không
nghiêng ngả bên nào quả thật rất khó khăn! Để tránh bị lôi kéo, tôi đã “tự ý
ngưng gởi bài”cộng tác với các báo nhiều năm, vì không muốn bị
lôi cuốn vào phe phái, nhất là không thể gởi bài cho các tờ báo mà trong đó có
các bạn của tôi đang chống nhau! Cũng kể từ ngày đó tôi
không còn thiết tha gởi bài cho báo!
Chỉ vì quan niệm muốn bảo vệ giá
trị đích thực của một nhà văn! họ tiến ra tuyến đầu xung khắc nhau kịch liệt!
Đã có biết bao bạn văn của tôi ở hai phía phải tạm gác bút vì ngại bị vướng mực
do ngộ nhận. Thuở đó, bên nào cũng mạnh cũng tài giỏi và sắc bén như nhau, tôi
ở giữa hai làn đạn nên chỉ biết thở dài sau đó lánh xa chốn tranh chấp! Tôi đến
với các bạn bằng một trái tim chân tình, có lẽ thế sau bao năm dù đời có nhiều thay đổi, bằng hữu cũ có người mất
người còn nhưng tình bạn xưa vẫn khắn khít còn mãi đến hôm nay. Khi tập thơ
được in xong, các bạn văn vì cảm mến tôi nên đã cùng nhau tổ chức một buổi ra
mắt sách rất trang trọng vào ngày 4 tháng 10 năm 1998 tại Hội Trường Quốc Tế
Paris, quy tụ tất cả các văn nghệ sĩ ở Paris và khắp nơi đến. Đặc biệt những
danh ca chỉ dành hát độc quyền cho các trung tâm Nhạc cũng về Paris trình diễn
cho buổi ra mắt sách. Ngày ra mắt sách tôi có gởi thơ mời GS Đặng Văn Nhâm nhưng vì ở Đan Mạch xa xôi
nên anh không qua dự được. Tôi gởi sách tặng, nhận được anh gọi phôn chúc mừng.
Gần hai mươi năm sau trong một
lần họp bạn văn nghệ ở Paris, có người yêu cầu tôi đọc bài thơ cũ. Để đẹp lòng
người bạn tôi đã đọc. Khán phòng đẹp, trang trí ấm cúng, điều tuyệt vời là
khách tham dự giữ yên lặng vì sự tôn trọng nhau. Đến lượt trình bày tác phẩm
của nhà biên khảo nổi tiếng ở Paris, với một giọng trầm buồn anh chậm rãi kể
lại một câu chuyện tình trong văn học. Mọi
người trong khán trường nghe anh kể rất hay nhưng có lẽ không hiểu những đièu
bí ẩn trong câu chuyện! Ngoại trừ tôi và anh, vì người đàn bà trong thơ đó có
một thời là chị dâu của anh.
Đó là một người đàn bà đã có gia
đình rất yêu thơ văn nên
thích sống bằng mộng. Một hôm người đó gặp được người thi sĩ tác giả những bài
thơ mà mình yêu thích nên hai người trân trọng nhau. Từ đó họ trở thành đôi bạn
ngưỡng mộ nhau qua thơ văn. Người thi sĩ có tài làm thơ nên đã viết những vần
thơ rất trữ tình nửa hư nửa thật để tặng đời. Vì quá yêu thơ mình, và cũng để
cho vần thơ thật lãng mạn thi sĩ đã đẩy cảm xúc lên tột cùng, mượn hình ảnh nàng thơ để sáng tác nên ngôn
ngữ thơ trở thành mời gọi, quyến rũ tâm hồn nàng để rồi thi sĩ và nàng thơ đã
thật sự bị đắm đuối! Ở Tây phương mấy thế kỷ trước Thi Văn hào Victor Hugo
người Pháp đã nói câu để đời:“Chết vì thiếu tình yêu thì ghê gớm qúa. Đó là sự chết ngạt của
tâm hồn.”
Thơ tình “lứa đôi”
là những trái mộng đầu đời ai cũng có thể hái dệt thành thơ. Người làm thơ đã
chắt chiu kỷ niệm gom nhặt cảm xúc rồi trang trải lên trang giấy học trò thành
nhiều bài thơ tình có bài hay có bài dở. Những bài thơ tình thơ mộng đó dễ bị
quên lãng hoặc người đời không hề biết đến vì nó thiếu tính độc đáo, bài thơ
nào cũng na ná giống nhau! Để thành một bài thơ tình xuất sắc, độc đáo được cả
nội dung lẫn hình thức rất khó! Ở tuổi mới lớn tình yêu vừa chớm tâm hồn còn trong sáng đầy mơ mộng và tình yêu như nụ hương ngây ngất
khiến hồn bồng bềnh say đắm dễ cảm xúc nên có thể làm một bài thơ tình hoặc nhiều
bài thơ nặng chất học trò nhưng lại khó hay vì lời và ý còn mộc mạc! Người làm thơ không có ý trở
thành thi sĩ nên chưa chú ý về nghệ thuật cấu trúc
thơ để có thể diễn đạt được những cái hay cái đẹp của thi ca bằng ngôn ngữ chắt
lọc thành bài thơ tình muôn thuở. Nếu cái nguyên sơ mộc mạc của lời
tỏ tình diễn tả được ý nghĩa sâu sắc, chất độc đáo của cuộc tình thì bài thơ sẽ
là cõi riêng, thơ sẽ chắp cánh và đi vào lòng người tồn tại lâu dài với thời gian.
Ở tuổi về chiều làm một bài thơ tình rất khó vì con tim đã cằn cội lại chứa đầy
những biến động thăng trầm nên hồn thơ bị trầy trụa, cảm xúc dễ bị sơ cứng do
đó hụt hẫng trước cuộc đời nên lời thơ kém óng ả mượt mà, nhất là không dám thổ
lộ tiếng nói thật của con tim cho dù kỹ thuật làm thơ rất điêu luyện! Trong vườn
thơ hải ngoại đa số các thi sĩ đã qua thời thanh xuân cháy bỏng làm những bài
thơ tình dù nỗi đam mê sáng tác và nguồn cảm hứng thơ vẫn còn nhưng đa số là
thơ hoài niệm về quê hương. Đây là nguồn cảm hứng vô tận trong tâm thức của người
tha hương vì khi ra đi họ đều mang theo một quê hương trong trái tim.
Thủơ xa xưa ở quê nhà vào đầu thập niên 60 của thế kỷ trước trên làng thi văn
xuất hiện những bài thơ tình độc đáo của thi sĩ Anh Hoa nhưng những vần thơ ngọt
lịm đó chẳng bao lâu bị chìm khuất bởi khói lửa chiến chinh, nhà thơ bị cuốn
hút vào vòng lửa đạn, tiếng thơ bị át bởi tiếng vọng quê hương. Thế sự thăng trầm
nhà thơ giã từ chiến trường để đi vào chốn lao tù trại tập trung. Hơn mười mấy
năm khổ ải trong ngục tù nhà thơ Anh Hoa đã vui với vần thơ, đã dựa vào thơ mà
sống. Ra được hải ngoại Anh Hoa đã cảm ơn vần thơ và cảm thấy chung quanh đời vẫn
đẹp, còn nhiều sắc màu như muôn hoa nên
nhà thơ đã đổi bút hiệu thành Hoa Văn để làm những bài thơ tặng người, tặng đời.
Nay tuổi đã xế chiều nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho ra nhiều tập thơ mà
trong đó có hàng trăm bài thơ tình sướt mướt thi sĩ đã viết cho người mình yêu
dù đó chỉ là mối tình đơn phương! Tình yêu đã giúp cho hồn thi nhân thăng hoa
nên nguồn cảm xúc của Hoa Văn vẫn mãnh liệt, vẫn nhạy bén trước ngoại cảnh bằng
một sự rung động thật. Phải chăng nó là hoa thơm cỏ lạ bắt nguồn từ hình bóng người mà nhà thơ yêu qúy rồi biến đối tượng
thành một một nàng thơ để thi sĩ thả hồn và dệt mộng chấp cánh. Trong những thi
tập viết về Tình Yêu tâm hồn nhà thơ Hoa Văn đã rung động thật trong sáng tác
trước nàng thơ, cho dù thi sĩ chưa bao giờ được may mắn đối diện. Cái thực
trong đời sống và cái mộng trong ảo giác
đã hòa nhau như cung bậc bản tình ca giao hưởng nên ngôn ngữ thơ mượt mà óng ả
có rất nhiều hình ảnh của bóng hồng, nàng thơ trong mộng và cũng là người thật
nhưng xa vời hư ảo, tất cả đã lướt qua trong tâm hồn thi nhân trong sáng tác để
kết thành nàng thơ. Màu sắc, không gian trong thơ Hoa Văn đôi khi là những hình
ảnh tưởng tượng không nhất thiết phải có thực ngoài đời và nàng thơ trong của
thi sĩ cũng thế, cũng được nhà thơ thăng hoa
trong mộng, hóa thể nhập vào thơ
làm rung cảm người đọc như lời tình tự của thi sĩ đang viết cho mình. Nhà thơ
yêu thơ của mình hơn những thực thể ở ngoại cảnh nên đã tô vẽ màu sắc cho lời
thơ óng ả, sướt mướt làm đẹp con chữ, ý thơ. Tình yêu lứa đôi là chất liệu nhạy
bén làm rực cháy tâm hồn, phải sống với hơi thở của tình yêu mới cảm được lời
thì thầm của con tim thì mới viết được bài thơ Tình độc đáo để đời, nếu không
chỉ là những bài vần điệu đã có từ hàng ngàn năm trước xếp nếp vì quá cũ mà ai
cũng có thời dệt sợi tơ tình làm thơ. Nàng thơ đóa hoa nghệ thuật, là người thật
đã được nhà thơ chọn làm đối tượng cho tác phẩm 300 bài Những áng thơ tình tuyệt
diệu dù chỉ một bài vào trang sách cũng đủ cho đời thưởng lãm vì tình yêu thì
muôn đời không phai:
«Tình em mãi mãi mền như lụa
Mãi mãi lung linh chẳng tận cùng
Bát ngát hương hoa ngào ngạt tỏa
Bên đời chỉ thấy những thương mong. »
( trích: Hương Tình Hoài Điệp)
Viết Cho Nhau
Em ơi quá khứ nhủ thầm
Tạ từ mười ngón tay câm nín buồn
Đêm về ngõ mắt cô đơn
Lệch đôi dép cũ nghe mòn thời gian
Năm dư tháng đủ ngày tàn
Buồn xê dịch thuở đời man dại rồi
Mùa đi mắt đỏ chân trời
Mùa về môi ngọt tiếng cười hồi sinh.
( Thơ thập niên 60)
Trên đời có cái gì tồn tại mãi chẳng tàn phai theo thời gian? Cuộc tình nào rồi cũng phải qua đi nhưng tình thơ
vẫn còn đọng lại trang sách. Dù hư cấu hay chuyện thật
thì sáng tác của thi nhân vẫn góp cho đời những những vần thơ hay, áng thơ đẹp
làm xao xuyến lòng. Ngàn
năm sau những người yêu thơ đọc lại trang thơ cũ có ai thương cảm nỗi lòng thi
nhân? Người thi sĩ ngày đó nay tóc đã
bạc phơ, cuôc tình trong thơ năm xưa đã bay theo gió. Nhưng tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng bất tận của người làm thơ, đó còn là nơi chỗ
trú ngụ để tâm hồn thi nhân bay bổng vào cõi diễm tuyệt trước khi là phu du. Những vần
thơ say đắm tình vẫn cô đơn nằm trên trang sách, cho dù nhà thơ có muốn
quên nàng thơ nhưng hồn thi nhân vẫn nhớ mãi nụ cười của người tình
năm đó? Những mối tình lứa đôi dù dang dở hay trọn vẹn thì vẫn giúp cho thi nhân có thêm nguồn cảm hứng dệt
cho đời những áng thơ tình muôn sắc.
Đỗ Bình
Ghi Chú
*Thi, Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật qua đời 2014
*Nữ sĩ Nguyễn
Thị Vinh người cuối cùng của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, qua đời 8.1.2020
GS Đặng Văn
Nhâm qua đời 2017.
No comments:
Post a Comment