![]() |
NGƯỜI ĐẸP KIM LOAN. |
XÓM ĐẠO NGOẠI Ô
Chúng ta khi sống trên xứ người, đều mang theo
một chút quê hương theo mình. Có thể là một con đường, một góc phố, hay một xóm
nhỏ yêu thương đã gắn bó một quãng đời dài. Tôi cũng có một quê hương trong
trái tim mà mỗi khi nhớ đến vẫn làm tôi thổn thức, rạo rực khôn nguôi.
Đó là một xóm nhỏ vùng ngoại ô, cách trung tâm
Sài Gòn khoảng gần mười cây số. Nhớ hồi ra Sài Gòn học, khi các bạn bè hỏi đến
nhà chơi, tôi trả lời ở Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp, nhiều người còn ngơ ngác
không biết nó ở đâu. Tôi phải vẽ trên giấy chỉ đường cẩn thận, nếu bạn đi từ
hướng Ngã Tư Phú Nhuận xuống, đường Hai Bà Trưng kéo dài là đường Võ Di Nguy,
sau đổi thành Nguyễn Kiệm, đến khu vực Ngã Năm Chuồng Chó, cứ tiếp tục đến Ngã
Ba An Nhơn thì rẽ trái khoảng 500m, hỏi Giáo Xứ Đức Tin, nhà của tôi nằm phía
sau nhà thờ đấy. Nhà tôi không ở trung tâm phố thị phồn hoa, xóm tôi không cao
sang lộng lẫy, nhưng tôi yêu thương xóm đạo của tôi quá đỗi, vì đó là nơi tôi
được sinh ra, lớn lên và cho tôi một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc.
Có thể nói, ngôi nhà thờ nhỏ, đơn sơ, bên cạnh
cái chợ bé xíu là trung tâm điểm của xóm tôi, được bao bọc chung quanh bởi
những dãy nhà cách nhau bằng những con hẻm, kéo dài và ăn thông với nhau dẫn ra
đường cái đến thẳng chợ Thông Tây Hội (cũ) và xa hơn nữa là Xóm Mới. Thuở lên
chín lên mười, niềm vui của tôi là cùng lũ bạn nhỏ tụ tập chơi quanh xóm và sân
nhà thờ. Tuy nhà thờ không lớn nhưng cũng có một khoảng sân tráng xi măng và
hàng rào sắt bao bọc, đủ cho thế giới tuổi thơ chúng tôi. Góc bên trái của sân
nhà thờ có trồng một cây hoa sứ, bên cạnh cái tháp chuông. Những buổi trưa
nắng, cây hoa sứ và cái tháp chuông làm thành một bóng mát, lũ trẻ con nhặt hoa
sứ chơi bán hàng, đám con gái chúng tôi chơi banh đũa, nhảy dây, trong khi mấy
đứa con trai chơi trò tạt lon ồn ào, náo nhiệt.
Vui nhất là ba tháng hè, khi cây hoa phượng ở
đầu xóm nở hoa đỏ rực, chúng tôi được nghỉ học, và những cuộc chơi trẻ thơ
dường như dài bất tận. Buổi trưa hè nóng nực và im vắng, tôi thường trốn giấc
ngủ trưa để nhập bọn cùng lũ bạn đã đợi sẵn ở sân nhà thờ. Những trò chơi làm
chúng tôi say mê quên cả thời gian. Hết trò này đến trò kia nhưng không bao giờ
mệt mỏi. Đến khi chán chường với những trò chơi ấy, chúng tôi lại rủ nhau đến
chơi nhà xứ. Nhà của Cha nằm trong dãy nhà ngoài đường cái và là ngôi nhà đẹp
nhất xóm. Nhà lầu đúc hai tầng, có ban công lót gạch đá hoa mát rượi nhìn ra
khoảng sân rộng rãi, phía trước có hàng rào sắt bao quanh cao hơn đầu người
lớn. Trong khuôn viên ấy, có một căn nhà nhỏ, là nhà bếp và nơi ở của ông
cụ Hanh, người chăm lo việc giặt giũ cơm nước cho Cha. Con đường từ cổng vào
nhà được tráng xi măng, và tất cả phần còn lại là mảnh vườn có đầy đủ các loại
hoa kiểng. Ngay góc sân là cây mận cổ thụ cao to, cành lá xum xuê, vươn ra đến
ban công trên tầng lầu. Sát bên hàng rào sắt là những bụi hoa mai, mỗi mùa Tết
đến trổ bông vàng rực khiến ai đi qua cũng phải dừng lại trầm trồ.
Cổng sắt của nhà xứ luôn luôn để ngỏ, chúng tôi
lại bày trò chơi trên nền xi măng, vì dọc lối đi có những hòn đá tảng rất to có
thể làm chỗ ngồi nghỉ ngơi. Gió hiu hiu thổi, đưa những bông hoa mận rụng trắng
xóa một góc vườn. Chúng tôi gom những bông hoa trắng tơi như bông để chơi bán
hàng, hoặc rải lên mái tóc để làm điệu như người lớn, rồi đi khắp vườn tìm
những trái mận rơi rụng, khi ăn vào ngọt lịm đến tận ruột gan. Cũng có khi Cha
xứ sai ông cụ Hanh ra vườn với cái cây dài để hái mận cho lũ chúng tôi. Cả đám
reo hò ầm ĩ khi thấy rổ mận đầy ắp, ông cụ Hanh dẫn chúng tôi vào nhà bếp rửa
mận, và còn hào phóng làm thêm một chén muối ớt đỏ tươi ngon lành, chưa ăn đã
kịp chảy nước miếng.
Rất nhiều lần, Cha xứ cho chúng tôi vào căn nhà
lót gạch đá hoa mát rượi của Cha. Chúng tôi ùa vào và len lỏi khắp nơi để khám
phá thỏa chí tò mò trẻ thơ. Căn phòng khách rộng rãi có bộ bàn ghế sa lông và
chiếc đàn piano lớn đặt ngay cửa sổ nhìn ra khu vườn. Cha đã dạy tôi những nốt
nhạc đầu tiên trong đời trên chiếc piano này. Khi đánh được một câu nhạc, tôi
đu người trên song sắt cửa sổ và hét to lên vì sung sướng. Ở trên lầu, còn có
một phòng lớn để các nhạc cụ như một bộ trống, đàn guitar, và một cây đàn piano
khác nữa. Đặc biệt có một thư viện nhỏ hẹp, bên trong là hai kệ sách sát tường
cao ngất ngưỡng, tôi phải kiễng chân ngửa đầu nhìn cho đến khi mỏi cổ mới thôi.
Cha xứ yêu thương chúng tôi đến như vậy, nhưng
Ngài vẫn không thoát khỏi những trò chơi nghịch ngợm của lũ chúng tôi. Đó là
những buổi trưa chúng tôi đến sân nhà xứ hơi sớm, khi nhìn thấy cửa nhà Cha vẫn
đóng, đó là dấu hiệu Ngài đang ngủ trưa hay đang đọc kinh. Chẳng có chuyện gì
làm, chúng tôi bèn nghĩ ra cái trò…bấm chuông. Một đứa leo lên vai đứa kia để
với tới cái chuông và …bấm! Nghe tiếng dép lịch xịch ra mở cửa là cả đám co giò
chạy hết tốc lực ra ngoài cổng. Trò chơi này cho cảm giác mạnh, tim đập nhanh
và hồi hộp vô tả. Không phải Cha xứ không biết tác giả là lũ chúng tôi, nhưng
Ngài chưa hề la rầy nửa lời. Có người phàn nàn với Cha, Ngài cười tươi rói: “Cứ
cho chúng nó phá nhà xứ, còn hơn là để chúng đi phá làng phá xóm!” Ôi, câu nói
ấy vẫn ám ảnh theo tôi cho đến bây giờ. Cha ơi, nếu ngày ấy Cha cấm đoán hay
trừng phạt chúng con, thì con đã mất đi một thiên đường tuổi thơ đẹp tuyệt vời!
Những buổi tối mùa hè cũng là những cuộc chơi
không dứt. Trời oi bức hiếm hoi những ngọn gió mát, cả xóm kéo nhau ra chơi
ngoài cửa. Chúng tôi lại rủ đến nhà xứ hay sân nhà thờ. Những khi có trăng,
những ngõ hẻm trong xóm trở nên đẹp lung linh, thơ mộng, nhất là những ngày bị
cúp điện. Nhà xứ là nơi có những buổi hội họp của các hội đoàn giáo xứ, và ca
đoàn cũng tập hát nơi đây, nên chúng tôi thích ghé chơi vì không khí rất vui.
(Ai đã từng yêu mến tiếng hát Ngọc Lan, cô ca sỹ có giọng hát nhẹ như khói sương,
dáng người mỏng manh và cuộc đời vắn số, cô ấy chính là một giọng ca chính của
Ca Đoàn xứ Đức Tin thuở ấy, mà chúng tôi thường hay chen lấn ở cửa sổ nhà xứ
chỉ để ngắm nhìn sắc đẹp của chị Lan. Chị có một mối tình rất đẹp với anh ca
trưởng tên Quang, là sinh viên Y khoa, với cặp kính cận và cây đàn guitar. Hai
người sau đó đi vượt biên, khi ra hải ngoại thì chia tay và Ngọc Lan trở thành
ca sỹ nổi tiếng của Trung Tâm Asia. Tôi sẽ trở lại đề tài này vào một dịp khác,
kẻo sẽ bị lạc đề, không chừng còn mang tiếng “nhiều chiệng” thì oan cho tôi
lắm!). Sau khi họp hành, Cha xứ thường mở rộng cửa cho chúng tôi vào xem ti vi,
nhưng cũng chẳng níu kéo chúng tôi lâu hơn, cả đám lại kéo nhau đi tìm thú vui
khác tại sân nhà thờ. Thế là một khung cảnh náo động lại bắt đầu. Chơi bịt mắt
bắt dê, chơi trò trốn tìm, mệt thì ngồi xuống dưới bóng tối tháp chuông kể
chuyện… ma, và khi có thêm trẻ nhập bọn thì chúng tôi chơi trò chơi tập thể.
Hai đứa lớn làm quản trò, giơ hai tay thành cái cổng, đám còn lại xếp hàng nối
đuôi nhau đi qua cổng và hát to:
“Thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn
Trên trời có Chúa có Cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi gần chết được lên thiên đàng …”
Đến lúc đó hai người làm cổng mới hỏi từng đứa:
“Ăn cam hay ăn quít?”, cứ thế tiếp tục đi qua cổng và hát, đám ăn cam ngồi một
bên, đám ăn quýt ngồi một bên (trước đó hai người quản trò đã bàn với nhau ăn
cái nào là thiên đàng, ăn cái nào là hỏa ngục), cuối cùng tuyên bố ra, những
đứa bên hỏa ngục phải còng lưng ra cõng mấy đứa bên thiên đàng xung quanh sân.
Có thế thôi mà vui thật là vui, đến khi ba má đến réo gọi mới chịu chạy về nhà
đi ngủ.
Thế rồi thời gian trôi đi, chúng tôi lớn lên
thành những chàng trai thiếu nữ. Chúng tôi không còn tụ tập chơi ở sân nhà thờ
hay nhà xứ nữa, chỉ thỉnh thoảng khi trường làm bích báo, tôi lại chạy đến
phòng thư viện nhỏ của Cha để mượn những cuốn sách Tuổi Hoa được xuất bản trước
năm 1975 mà Cha còn giữ lại, hoặc khi lớp của tôi mở tiệc Giáng Sinh tại nhà
tôi thì tôi và mấy đứa bạn kéo nhau đến nhà xứ để mượn thêm bàn ghế. Tuy nhiên,
tôi vẫn giữ thói quen mừng tuổi Cha vào dịp Tết. Cứ vào sáng mồng một Tết, sau
bữa ăn trưa, tôi và hai nhỏ bạn thân trong xóm cùng đi chúc Tết Cha. (Lạ kỳ
thật đấy, gần hai mươi đứa trẻ của ngày xưa mà bây giờ chỉ còn ba đứa đến thăm
Cha xứ thôi ư? Mà thôi, ngay chính Chúa Giesu xưa kia chữa bệnh phong hủi cho
mười người, cũng chỉ có một người quay lại cám ơn Ngài đó sao? Mà đó lại là một
người dân ngoại, huống hồ là lũ trẻ vô tâm vô tánh như chúng tôi, chắc Cha Sở
cũng không lấy gì làm phiền hà). Ngài cũng đã già hơn, yếu hơn xưa, và ánh mắt
nhìn chúng tôi mừng vui xen lẫn với một chút buồn ngậm ngùi, vì chúng tôi đã đủ
lông đủ cánh bay vào cuộc đời mênh mông.
Quả là như thế, tôi đã bận rộn triền miên với
sách vở, học hành và những mùa thi nối tiếp nhau. Có chút rảnh rang thì cùng
bạn bè vào những quán đèn màu thưởng thức cocktail, nhâm nhi ly café đá, tập
tành nghe nhạc xập xình những bài hát thời thượng của Boney M, Abba, the
Capenters, hoặc thả hồn vào những bài hát tiền chiến ủy mị, nào Hương Xưa, nào
Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, nào Thu Quyến Rũ, hoặc đạp xe ra Sài Gòn dưới những
con đường có lá me bay. Rồi có bạn trai, bận làm Thơ tình, yêu thương và hờn giận,
xen kẽ với những căng thẳng lo âu của những mùa thi trên giảng đường, xôn xao
những ngày phượng nở và chia tay, nên những trò chơi đơn sơ và rẻ tiền của thời
thơ ấu đã thực sự chìm vào lãng quên, trở thành một kỷ niệm xa xăm.
Tháng 12 năm 1989, tôi và bốn mươi người khác
được gửi đến trú ngụ ở một căn nhà giữa cánh đồng ở miền quê tỉnh Kompomsom,
Cambodia chờ ngày lên tàu vượt biển. Buổi sáng tôi thường dậy rất sớm, bước ra
ngoài tập thể dục và hít khí trời trong lành. Bàn chân tôi dẫm lên những đám cỏ
còn ướt đẫm hơi sương, và phía xa tận chân trời còn mờ tối là mặt trời đang mọc
sớm hay ánh trăng tàn đang lặn muộn? Xa xa, làng mạc vẫn còn chìm trong giấc
ngủ say dưới màn sương mờ đục, đẹp như một bức tranh. Những cây thốt nốt vươn
mình trong bầu trời sớm, dáng cong rũ mềm mại như những cây dừa quê hương, tôi
bỗng thấy nhớ nhà đến xót xa.
Giờ này chắc cái chợ nhỏ đã bắt đầu dọn hàng,
nào bún riêu, bánh cuốn, xôi vò, bánh cam, chuẩn bị cho những hàng quà buổi
sáng. Hai quán café ở đầu xóm cũng đã mở cửa đón khách đi làm sớm. Tôi như nghe
thấy tiếng chuông nhà thờ buổi sớm vừa vang lên rộn ràng, thúc giục. Tôi ước
sao có đôi cánh để bay về với xóm nhỏ của tôi, dù chỉ là vài phút thôi, để kịp
nhìn thấy trong những ngõ hẻm còn mờ tối là bóng dáng các cụ ông cụ bà rảo bước
đến nhà thờ, có bà vừa đi vừa cài vội mấy nút áo dài, trước sân nhà thờ ông
trùm Cương vừa mở cổng vừa tươi cười hỏi thăm những người đi lễ sớm.
Và phía sau ngôi nhà thờ, là căn nhà thân yêu
của tôi, với giàn hoa bông giấy đỏ tươi trước cổng. Tôi nhớ từng người thân
ruột thịt của mình, tôi nhớ cả những đồ vật vô tri vô giác nhưng đã từng gắn bó
với tôi như hơi thở. Nhớ căn phòng ngủ của tôi, có một ô cửa sổ bé xíu nhìn ra
khu vườn sau của nhà hàng xóm, thấy cả những cây chuối đong đưa những trưa hè
dưới làn gió thoảng. Nhớ cái tủ đứng nơi góc phòng, bên trong là cả “gia tài”
vô giá của tôi: những bộ quần áo tôi sắm được bằng chính đồng lương của mình,
những cuốn albums, những cuốn lưu bút và nhật ký, đồ trang điểm. Nhớ chiếc bàn
viết bên cạnh giường ngủ, nơi tôi vẫn ngồi hàng đêm soạn giáo án và chấm bài
học trò, hoặc lãng đãng trên những trang nhật ký khi những hạt mưa đầu mùa rơi
lộp độp trên mái tôn vào những đêm khuya lắc khuya lơ …
Rồi tôi khóc nghẹn ngào. Ở cái giây phút sắp sửa
bỏ lại quê hương, tôi bỗng thấy yêu mảnh đất xứ sở của mình quá đỗi. Sao tôi
lại muốn mình trở lại như trẻ thơ, hồn nhiên vô tư, không chút buồn lo nơi cuộc
đời đầy biến động này:
Cho tôi lại ngày nào
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
Trong đêm mùa khô ráo
Tôi nghe tiếng còi tầu.
(Phạm Duy)
Ngày hôm sau, con tàu định mệnh đã đưa tôi ra
khơi, xa mãi quê hương thân yêu, đến trại tỵ nạn Thailand ở bốn năm ròng rã
trước khi định cư tại Canada. Gia đình, người thân tôi cũng lần lượt ra đi sinh
sống rải rác ở Mỹ, nên mãi hai mươi năm sau kể từ buổi sáng năm nào khóc trên
xứ Chùa Tháp, tôi mới có dịp trở về thăm xóm nhỏ của tôi.
Thời kinh tế thị trường đã thay da đổi thịt đến
tận xóm ngoại ô. Tôi đã lặng lẽ khóc khi đứng trước căn nhà xưa của mình mà nay
không còn gì quen thuộc ngoài bảng số nhà 112/4, vì bây giờ đó là nhà hàng cơm
bình dân. Nơi giàn bông giấy ngày xưa cho tôi những chiều mưa ủy mị xót
thương những cánh hoa mỏng manh run rẩy, nay là quầy để thịt kho, cá
chiên, rau xào, đậu hũ. Mảnh sân trước tráng xi măng thuở nào êm ấm những sáng
mùa xuân chị em tôi phơi dưa kiệu, làm bánh mứt, nay là chỗ cho thực khách ngồi
ăn vội vàng bữa cơm trước khi trở về hãng xưởng làm việc. Những căn nhà
lầu mọc lên thay cho những căn nhà đơn sơ thuở nào làm cho những con hẻm bị nhỏ
lại. Tôi hỏi bạn: “Vậy ánh trăng có còn tràn xuống hẻm lấp lánh, kỳ ảo vào
những ngày rằm?” Câu trả lời là: “Trời ạ! Thời buổi này chẳng ai còn thời giờ
để lãng mạn, mộng mơ nữa đâu”.
Nhà xứ được xây đẹp hơn, nhưng cây mận với những
chùm hoa trắng như bông tuyết của tôi đâu rồi?! (Tôi nghe lòng mình thổn thức).
Nhà thờ cũng được phá đi xây lại toàn bộ, cũng trên diện tích ấy người ta xây
hai tầng lầu, phía dưới là chỗ để xe, phòng áo, phòng hội họp, còn trên lầu là
Cung Thánh cao sang, gác đàn rộng rãi. Phía trước nhà thờ thật bề thế với những
bậc cầu thang trải dài xuống tận phía dưới. Cái tháp chuông mới hơn và cao hơn,
và không hiểu tại sao cây hoa sứ đã không còn nữa. Tôi hốt hoảng: “Vậy làm sao
lũ trẻ nhặt hoa ngửi mùi hương và chơi bán hàng?” Bạn tôi cười buồn: “Mày lo bò
trắng răng. Con nít ngày nay chơi game, trò chơi điện tử, chứ đâu thèm chơi
những trò chơi quê mùa rẻ tiền như chúng mình ngày xưa” Tôi vớt vát: “Thế còn
những bài đồng dao: Thiên đàng địa ngục hai bên? …Rồng rắn lên mây có cây lúc
lắc? …” Bạn tôi lại cười buồn: “Xưa rồi …Diễm!”. Buồn nữa là Cha xứ, linh mục
Heromino Phạm Ngọc Giá và ông cụ Hanh cũng đã lần lượt qua đời cách đây khá
lâu. Bạn bè xưa mỗi đứa tan tác một phương trời. Tất cả đều đã đổi thay như
cuộc đời dâu bể.
Từ trong đáy lòng, tôi thực sự vui mừng cho
người dân xóm tôi vì cuộc sống đã được nâng cao. Tôi mừng vui cho những giáo
dân của xóm đạo ngoại ô đã có một ngôi nhà thờ khang trang rộng rãi.
Nhưng mãi mãi trong tâm trí tôi vẫn là hình ảnh
một xóm nhỏ đơn sơ, có những căn nhà cao thấp xen kẽ nhau, có những ngõ hẻm rộn
ràng sáng rực ánh trăng, và một ngôi giáo đường bé nhỏ xinh xinh. Và bao giờ
cũng vậy, qua làn nước mắt, tôi thấy lung linh hình bóng của Cha Heromino Phạm
Ngọc Giá, với đôi mắt nhân từ sau cặp mắt kiếng và nụ cười nở trên môi, đang mở
rộng cánh cửa nhà xứ cho lũ chúng tôi ùa vào trong mùi thơm ngào ngạt của những
bông hoa mận rụng trắng ngoài sân.
Ngày ấy đâu rồi?!
Edmonton, trời lập đông, tháng 12/2023
KIM LOAN
No comments:
Post a Comment