HÀ-NỘI
Tôi vốn mơ đi khắp nẻo
đường
Thăm từng thắng-tích
của quê-hương;
Nhưng, từ giới-tuyến1 qua rào trại2,
Tôi khó mong ngày tới
Bắc-phương.
1 Vĩ-tuyến 17 (1954-75) phân chia hai Miền Bắc/Nam.
2 Các trại tập-trung "cải-tạo".
Ấy thế mà tôi bỗng
được đi
Ra ngay Hà-Nội – đất “Kinh-Kỳ”
Thoả niềm ao-ước từ
thơ-bé,
Tận mắt trông nhìn
những biến-di.
Này, chiếc phi-cơ hai
quạt quay:
Nhanh năm trăm, và cao
năm cây;
Ghế ngồi gọn hẹp kê
liền sát;
Người Việt, người Âu,
khách đủ đầy.
Chiêu-đãi hai cô
nữ-tiếp-viên:
Tóc trần, ống nhựa
quấn hai bên,
Vét-can màu trắng,
cầu-vai ngược;
Kiến-thức nông+non,
sượng dáng-duyên.
Một lát dưa leo, hai
miếng ram;
Chả heo nửa lát, lát
mì lam;
Chuối chưa chín tới;
đường chê bánh;
Trà nhạt... mà ai cũng
thoả đàm!
Những vụ An, Trung,
Nha, Sơn, Bình3
Bận lòng “chiêu-đãi”
lẫn “an-ninh”.
Tôi cười trong
bụng: ngày xưa ấy,
Những Viết và Tân4 đã quấy mình!
3 Sau Tháng Tư Đen 1975:
*Vũ Hoàng An, nguyên
đại-uý QLVNCH, cướp phi-cơ Việt-Cộng tại Đà-Nẵng, bất-thành, bị xử tử.
*Có tin đồn Nguyễn Thành
Trung (cựu trung-uý phi-công VNCH, đem phi-cơ theo VC trước 30-04-75) đã cướp
phi-cơ thoát khỏi Việt-Nam.
*Tiêu Khánh Nha, thiếu-tá
phi-công VC, gốc Hoa, cướp phi-cơ bay thoát VC nên khỏi bị chúng thanh-trừng
sau vụ Hoa-Cộng tấn-công 1979.
*Sơn và Bình là hai
trung-uý phi-công VC, thuộc một tổ-chức "bạo-loạn", cướp trực-thăng
bay qua Hoa-Cộng.
4 Trước 1975:
*Nguyễn Cửu Viết toan cướp
phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Dakota tại phi-trường Phú-Bài, Huế.
*Lê Đức Tân toan cướp
phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Boeing gần phi-trường Bửu-Sơn, Ninh-Thuận.
Cả hai chỉ là phần-tử
bất-mãn, không phải VC (cf hồi-ký "Về Vùng Chiến-Tuyến" của Lê Xuân
Nhuận).
Hà-Nội đây rồi: dưới
nắng trưa,
Sông Hồng đỏ đục nước
nguồn mưa;
Quanh nhà đất thấp,
vườn ngâm nước;
Tường+mái rêu phong
nét cổ xưa.
Mấy chiếc hai hay ba
quạt quay
Cong đuôi nằm nghỉ
cuối sân bay,
Làm như nhớ thuở chồm
lưng địch
Bắt bê-năm-hai hạ
xuống đây!5
5 VC tuyên-truyền: chúng bay cao hơn B-52,
nhảy xuống trên lưng B-52, dùng dao-găm nạy cửa-sổ chui vào, chĩa súng-lục bắt
phi-công Mỹ đáp xuống sân bay Gia-Lâm; thế là chúng đã nhiều lần "bắt
sống" được cả "giặc lái" lẫn B-52 (!)
Đáp xuống Gia-Lâm, thấy bán-khai:
Tiếng Anh hai bảng cả
hai sai6;
Nhà-ga cũ-kỹ từ
Tây-thuộc;
Vắng xưởng, im kho,
lặng-lẽ đài.
6 Xem Chương "Sân Bay Gia-Lâm" trong
cuốn hồi-ký "Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách
Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hoà" của Lê Xuân Nhuận.
Chẳng tiễn-đưa đi,
chẳng đón về;
Phi-công, hành-khách:
dép mòn lê.
Đầu đường dăm chiếc mô-tô Nhật,
“U-Oát”, “Com-Măng”,
vài ba xe.
Xế trước, bên kia,
khách xúm đông:
Cộng-đồng ăn-uống
cửa-hàng công.
Mấy tay Tây-Cộng dùng
bia lạnh:
Trộn đá trong thau,
múc uống chung.
Vào phố, này đây cầu
Long-Biên;
Giữa: đường xe-lửa;
xe: hai bên.
Qua cầu: xe chạy đường
bên trái;
Mỗi nhịp cầu rung:
răng lão-niên!
Xe đẹp Miền Nam: của
“ngoại-giao”!
“Công-trường”,
“vận-tải”: của cần-lao!
Xích-lô, xe đạp; xe
bò; ngựa;
Gánh, vác, khiêng,
mang, kéo, đẩy nhau.
Không “vét”; không
giày; không áo hoa,
Dây chuyền, vòng,
nhẫn, nơ, trâm, thoa!
Mọi người tất-tả lo
làm-lụng;
Sự sống... gian-nan...
hiển-hiện ra.
Chẳng khải-hoàn-môn,
kỷ-niêm-đài,
Cờ, hoa, tranh, ảnh,
tượng, toà, ngai,
Bích-chương, biểu-ngữ,
loa, chiêng, trống
(Tội-nghiệp “Đàng
Trong” tưởng “Miệt Ngoài”...)!
Vách, mái lâu năm...
nứt, dột rồi!
Tróc sơn bảng hiệu, ố
màu vôi!
Có nhà xiêu, vẹo:
người còn ở
(Nhiều mái: tranh,
rơm, mo, lá thôi)!
Hoa chẳng bồn chăm;
nhãn chẳng lồng;
Nước vòi đỏ đục tự
nguồn sông;
Cá: nguyên vi, vảy,
kho không mỡ;
Rau muống quê chàng,
có phải không?
Nóng bức, môi khô, mắt
đổ quàng;
Inh tai, nhức óc tiếng
đài vang;
Bỗng như điện chạm,
da-gà nổi:
Có tiếng buồng bên hát
“nhạc vàng”!
Có cái gì như ứ nghẹn
hơi;
Mây vây, khí uất tự
lưng trời...
Người ta chờ đợi cơn
giông tới...
Hà-Nội trân mình – Hà-Nội ơi!
Tôi ngó trừng-trừng
miếng bánh khô:
Kiến Nam lơ lảng, Bắc
chui vô!
– Hôm nay có một tên tù “Ngụy”
Tới “thủ-đô” mà...
tiếc “thủ-đô”!
Trại Thanh-Liệt (Hà-Nội)
15-7-1981
No comments:
Post a Comment