“…Con chào đời tháng tư bảy
mươi lăm
Anh hai con chưa đầy hai tuổi rưỡi
Ba mẹ con bị ném lên vùng kinh tế mới
Ngôi nhà từ đường đảng xẻ thịt phanh thây
…Mẹ gánh hai con mỗi đứa một
đầu
Thất thểu đêm ngày trốn về thành phố
Chiếu đất màn trời đầu đường xó chợ
Mưa nắng che thân ống cống gầm cầu
Ba-mẹ-con bị bắt nhốt vào tù
Tội duy nhất đảng cướp nhà bịt miệng
Con khát sữa khóc la khản tiếng
Bầu vú khô mẹ vắt kiệt tia máu cuối cùng
Bạn tù thương pha nước lã muối
đường
Đứa con lớn gặm khoai sùng ngộ độc
Mẹ thoi thóp ôm hai con khóc ngất
Cấp cứu rền vang tiếng vọng hư vô…
…Ba ra tù tháng mười một tám
mươi ba
Chín năm khổ sai ba miền Nam-Trung-Bắc
Gia đình ta sống tiếp đời khổ nhục
Hành khất trời, hành khất đất Phương Nam
Hành khất dung thân ở cuối
đường hầm
Tia nắng rọi nhắc ba mặt trời vẫn mọc…”
(“Tự Truyện” – trang 135, 136, 137)
Khi Trần Văn Sơn ra tù, trở
về quê quán với hình ảnh bi thương:
“Cõng con dắt vợ leo đồi
Phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm
Vợ con tắm vũng trâu nằm
Lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày
Đầu trần chân đất hôm nay
Mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo”
(“Lên Rừng Làm Rẫy” – trang 213)
Qua bao thăng trầm, đắng cay
của cuộc sống, gia đình Trần Văn Sơn đã được qua Mỹ. Đời sống dần dần sáng sủa,
hai con học hành thành đạt, có công ăn việc làm. Anh đã thấy bình yên và bằng
lòng với cuộc sống hiện tại. Anh nhìn lại đời mình, và tự mình tìm đến Phật
Giáo, như một hướng đi mới của tâm linh.
Đọc “Ru Giấc Ngủ Say” (trang
104) của Trần Văn Sơn để thấy:
“Sư cụ ơi, cho con xin đốm lửa
Soi tờ kinh lần tràng hạt nam mô
Rừng u tịch lũng sâu vang tiêng mõ
Chỗ con nằm phiến đá mọc bên hồ
Sư cụ ơi, cho con xin nắm đất
Trước sân chùa con gieo hạt nhân sinh
Chuông vọng nguyệt nuôi mầm hoa bất tử
Chim chóc họp đàn tĩnh lặng nghe kinh
Sư cụ dạy con chữ Nhẫn vỡ
lòng
Khắc trên đá cùng chữ Tâm cứu rỗi
Gốc bồ đề ngàn năm rễ tủa hình rồng
Bầy thỏ bạch dựa lưng chắp tay sám hối
Sư cụ dạy con quên cái nhớ
trong đầu
Nhớ cái có vầng trăng soi bóng nước
Mỗi buổi sáng con nhìn con lần cuối
Ngày qua ngày tịnh cốc khuất chân mây
Con học thuộc lòng trang
kinh Phổ Độ
Hiểu chưa thông một chữ Ngã vô thường
Sư cụ dạy con mỗi tối niệm hương
Khêu ngọn bấc lung linh ngôi tam bảo
Con thiền định lòng vẫn còn
phiền não
Tụng Phổ Môn chưa thanh tẩy nợ đời
Quẩy nước lên đồi mơ ngày xuống núi
Tưới luống rau thương sĩ khí một thời
Sư cụ dạy con nhặt lá vàng
rơi
Gom một chỗ ủ phân nuôi cây lá
Trên sườn non có một bầy tượng đá
Tướng cướp buông đao kinh động núi rừng
Con u mê cõng nghiệp chướng
trên lưng
Vất bỏ nó sợ thành hình nhân rỗng
Sư cụ dạy con đong đưa nhịp võng
Ru giấc ngàn năm dưới gốc bồ đề.”
Đọc đến cuối những bài thơ của
Trần Văn Sơn, tôi mới hiểu ra chữ “Hồi Sinh” mà tác giả dùng làm tựa đề tuyển tập
thơ-văn này.
Nhà thơ Trần Văn Sơn sinh dưới
chân Lầu Ông Hoàng, Phú Hải, Phan Thiết, Bình Thuận. Hội viên Hội Văn Nghệ Sĩ
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Cộng tác với báo chí: Văn, Nghệ Thuật, Khởi Hành,
Phổ Thông, Khai Phá, Thế Đứng…
Bìa tuyển tập thơ văn “Hồi
Sinh” của nhà thơ Trần Văn Sơn là tranh của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, do Bạn
Văn Nghệ xuất bản năm 2020, tại Hoa Kỳ.
Sách dày 340 trang, in trên
giấy vàng dày, tốt. Trình bày trang nhã, đẹp mắt.
Địa chỉ liên lạc: Email: tvson1945@gmail.com;
điện thoại: (657) 944-8309.
No comments:
Post a Comment