Ba lần đổi tiền sau 30/4/1975
1/ Đổi tiền ngày 22/9/1975
Ngày 3/5/1975
chính quyền cách mạng tiếp quản NHQG của chính quyền Sài Gòn và vẫn sử dụng
đồng tiền của chế độ cũ trong lưu thông để không gây rối loạn trong lưu thông
tiền tệ ở miền nam những ngày đầu giải phóng. Ngày 6/6/1975 - 5 tuần sau ngày
giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra Nghị
định số 04/PCT - 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Ông Trần Dương
làm Thống đốc và thông qua danh nghĩa để thừa kế vai trò hội viên của Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam cũ của Việt Nam Cộng hòa này trong các tổ chức tài chính quốc
tế như: IMF, ADB, WB.
Tiếp theo, đài
phát thanh yêu cầu người dân phải về nhà trước 23 giờ ngày 21/9 để đợi thông
báo quan trọng. Lúc 2 giờ ngày 22/9/1975, đài loan tin về quy định đổi tiền và
kéo dài thời gian giới nghiêm đến 11 giờ sáng. Thời gian đổi tiền sẽ bắt đầu
vào lúc 11 cho đến 23 giờ cùng ngày, tức chỉ có 12 giờ đồng hồ để hoàn thành
việc thu và đổi tiền. Thể thức:
- Từ Quảng Nam,
Đà Nẵng vào nam thì hối suất là 500 đ VNCH = 1 đ tiền CHMNVN.
– Từ Thừa Thiên
Huế trở ra Bắc thì hối suất là 1000 đ VNCH = 3 đ tiền CHMNVN.
Tỉ lệ hối đoái:
1 USD = 1,51 đ
CHMNVN (Cộng Hoà miền nam Việt Nam)
1 USD = 2,90 đ
NHVN. (Ngân hàng Việt Nam)
Mỗi gia đình
được đổi 100.000 đồng VNCH ra thành 200 đồng CHMNVN để tiêu dùng thường nhật
(300 đồng ở Thừa Thiên). Tiểu thương có thể đổi thêm 100.000 đồng nữa. Những
xưởng lớn thì hạn là 500.000 đồng. Số tiền còn lại, tối đa là 100.000 cho một
gia đình và 1.000.000 đồng cho công xưởng thì phải ký thác vào ngân hàng.
Ở miền Bắc, 1
đồng giải phóng đổi 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi 8 hào
thống nhất. Đồng thời nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng,
5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Sau đó, từ đầu năm 1976,
các gia đình có tiền đổi được phép rút 30 đồng mới mỗi tháng. Tuy nhiên đến
tháng 12/1976 thì dân chúng không được rút tiền nữa.
2/ Đổi tiền ngày
3/5/1978
Sau khi thống
nhất Việt Nam năm 1976, ngoài mục đích thống nhất tiền tệ giữa hai miền Nam
Bắc, đổi tiền lần này được coi là một trong những phương thức tiến hành cuộc
cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam Việt Nam. Với quyết tâm xóa bỏ hình thức
kinh tế tư bản hiện hữu tại miền Nam, chính quyền mới đã thực thi mô hình kinh
tế xã hội chủ nghĩa trên cả nước.Theo sắc lệnh của thủ tướng mang số 88 CP ký
ngày 25/4/1978 thì lệnh đổi tiền này được giữ kín đến ngày 3/5, đến lúc đó mới
công bố toàn quốc. Ở miền Bắc, một đồng mới trị giá bằng một đồng cũ (tiền phát
hành năm 1958); ở trong Nam, một đồng mới bằng 0,80 đồng cũ (phát hành năm
1975). Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử cận đại cả nước Việt Nam chỉ dùng
một mẫu tiền chung.
Dân thị thành
được đổi tối đa:
- 100 đồng cho
mỗi hộ 1 người;
- 200 đồng cho
mỗi hộ 2 người;
- Hộ trên 2 người
thì người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người;
- Tối đa cho mọi
hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng.
Dân quê được phép
đổi theo ngạch sau:
- 100 đồng cho
mỗi hộ 2 người ;
- Hộ trên 2 người
thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người;
- Tối đa cho mọi
hộ dưới quê bất kể số người là 300 đồng.
Số tiền đang có
trên mức tối đa phải khai nộp và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng có lý do
chính đáng thì tiền đó có thể rút ra. Một điều buộc nữa là trương chủ phải
chứng minh số tiền này là tiền kiếm được bằng sức lao động chân chính.
3/ Đổi tiền ngày
14/9/1985
Ngày 12/9/1985,
báo Tuổi Trẻ đăng tại trang nhất: Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian
thương và đã viết: Với sự tăng cường hiệu lực của bộ máy chuyên chính vô sản
mọi hậu quả tin đồn phải được thanh toán triệt để. Thế nhưng chỉ hai ngày sau,
sáng sớm 14/9/1985, hệ thống phát thanh, truyền hình và báo chí trong cả nước
bất ngờ đưa tin thời sự nóng hổi Đổi Tiền. Nhà nước công bố đổi tiền theo tỷ lệ
10 đồng tiền NHNN cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới phục vụ cuộc cách mạng về giá
và lương. Mỗi gia đình chỉ được đổi 20.000 đồng cũ lấy 2.000 đồng mới; mỗi
người độc thân chỉ được đổi 15.000 đồng cũ lấy 1.500 đồng mới; mỗi hộ kinh
doanh công thương nghiệp chỉ được đổi 50.000 đồng cũ lấy 5.000 đồng mới. Nhà
nước đã cho phát hành thêm vào lưu thông một khối lượng lớn tiền tương đương
với 1,38 lần khối lượng tiền mới đã phát hành trong đợt đổi tiền trước đó để
phục vụ công cuộc cải cách lương và giá.
Thế nhưng, đời
sống kinh tế xã hội Việt Nam những năm sau đổi tiền rơi vào hỗn loạn với mức
lạm phát cao tới ba con số: năm 1986 là 774%, năm 1987 là 323%, và năm 1988 là
393%. Theo ông Nguyễn Thượng Hòa – nguyên Quyền Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà
nước, tổng bí thư Đỗ Mười đã tập trung giải quyết 5 vấn đề mà ông cho là trực
tiếp gây ra lạm phát. Cụ thể, để tiếp tục khắc phục mất cân đối cung cầu hàng
hóa, vào tháng 2/1989, ông Đỗ Mười chỉ đạo tìm mọi cách đẩy mạnh sản xuất hàng
hóa trong nước, tạo nên một quỹ hàng hóa để ứng phó với những biến động về cung
cầu hàng hóa có thể xảy ra khi thực hiện những biện pháp quyết liệt chống lạm
phát. Theo lời kể của ông Nguyễn Thượng Hoà, ông Đỗ Mười đã yêu cầu Bộ Ngoại
thương xóa bỏ những quy định không hợp lý về nhập khẩu phi mậu dịch, không
những cho phép mà còn khuyến khích cán bộ, chuyên gia, học sinh, sinh viên, lao
động ở nước ngoài, Việt kiều khi trở về nước đem hàng về càng nhiều càng tốt,
Nhà nước không đánh thuế, không thu mua.
Về xuất nhập
khẩu và ngoại tệ, tháng 3/1989, Nhà nước xóa bỏ chế độ hai tỷ giá song hành: bỏ
tỷ giá chính thức (lúc đó là 3.500 đồng/USD, thấp hơn gần 25% so với tỷ giá
trên thị trường (4.550 đồng/USD); thực hiện một tỷ giá ngoại tệ duy nhất được
vận dụng linh hoạt theo diễn biến tỷ giá được hình thành trên thị trường qua
hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, ông còn thực hiện chính sách: ngân sách không
trợ cấp xuất khẩu, không bù lỗ nhập khẩu; khuyến khích kiều bào ở nước ngoài
gửi kiều hối về nước; chuyển từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương; tổ
chức lại hệ thống ngân hàng bao gồm Ngân hàng Nhà nước làm chức năng quản lý
nhà nước và nhiều ngân hàng chuyên doanh hoạt động bằng vốn tự thu hút trong xã
hội theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh có lãi.
Không những vậy,
toàn bộ giá hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất của Nhà nước đều được nâng lên
sát giá thị trường. Tiền lương được điều chỉnh lên, không những đủ bù lại tác
động của việc tăng giá hàng mà còn có cải thiện một phần đời sống của họ: tiền
lương tối thiểu được nâng gấp 4 lần, tổng quỹ tiền lương được tăng lên gấp 5
lần so với năm 1988. Những biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt này khi đưa ra đã gây
những phản ứng của cả các nhà kinh tế và các doanh nghiệp. Trước tình hình đó,
ông Đỗ Mười rất thận trọng. Ông cử một đoàn cán bộ gồm: Tổng Giám đốc Ngân hàng
Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Thương mại, Chủ nhiệm Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước xuống Hải Phòng làm thí điểm. Kết quả cho thấy, việc thực hiện
các biện pháp trên không gây ra những rối loạn kinh tế - xã hội như có ý kiến
lo ngại. Trên cơ sở đó, ông đề nghị Hội đồng Bộ trưởng áp dụng trên phạm vi cả
nước.
Kết quả là lạm
phát bị chặn đứng, chỉ số giá từ tháng 5 đến tháng 7/1989 giảm so với các tháng
trước, có tháng chỉ số là âm: tháng 4 giảm 1% so với tháng 3; tháng 5 giảm 2%
so với tháng 4. Tiếp đó, do lạm phát tiếp tục giảm trong tháng 6 và tháng 7, 8,
9, ngân hàng đã hai lần điều chỉnh lãi suất xuống cho phù hợp với chỉ số lạm
phát nhưng vẫn bảo đảm người gửi tiền được hưởng lãi suất cơ bản. Các chuyên
gia kinh tế nước ngoài thời đó đã vô cùng ngạc nhiên vì đã dũng cảm thực hiện
những cải cách cơ bản, nhất là việc xóa bỏ bao cấp gạo, việc thực hiện một tỷ
giá ngoại tệ duy nhất trên cơ sở tỷ giá hình thành trên thị trường (mà họ gọi
là phá giá đồng tiền Việt Nam), việc chuyển đổi từ lãi suất thực âm sang lãi
suất thực dương mà không gây xáo trộn kinh tế, chính trị, xã hội.
Việc nâng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm lên 12% là một ví dụ điển hình. Trong khi chỉ số lạm phát là
7% một tháng, với lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12%, nhân dân thấy gửi tiền vào
ngân hàng vừa bảo đảm được giá trị tiền gửi vừa có lợi thêm 5% nên đã ồ ạt gửi
tiền vào ngân hàng. Lãi suất tiền vay ngân hàng được nâng lên 10-11%, tức là
bằng chỉ số lạm phát cộng với thực lãi mà người vay phải trả cho ngân hàng là 3
- 4%. Ngân hàng phải quản lý chặt chẽ việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp
nhà nước, giảm tín dụng cho Nhà nước để bù đắp bội chi ngân sách. Tổ chức lại
hệ thống ngân hàng, bao gồm Ngân hàng Nhà nước làm chức năng quản lý nhà nước
và nhiều ngân hàng chuyên doanh hoạt động bằng vốn tự thu hút trong xã hội theo
nguyên tắc hạch toán kinh doanh có lãi. Ngân hàng phải thu hút vốn từ xã hội để
bảo đảm nhu cầu tín dụng, hạn chế việc phát hành thêm tiền mặt ra thị trường.
Khi Nhà nước sửa
đổi chính sách đối với nhập khẩu phi mậu dịch, hàng từ nước ngoài đem về rất
nhiều, hầu hết là hàng mà nhân dân trong nước rất cần như tân dược, vải vóc, đồ
điện tử,... Người đem hàng về phấn khởi vì có thêm thu nhập, nhân dân cũng phấn
khởi vì có hàng để mua. Số lượng kiều hối gửi về cũng tăng gấp nhiều lần. Đối
với nông dân, việc nâng giá mua lúa lên sát giá thị trường khiến nông dân phấn
khởi, bán gần triệu tấn lúa cho Nhà nước, nhờ đó Nhà nước không còn phải nhập
khẩu gạo mà vẫn có lực lượng để bình ổn giá thị trường, ngoài ra có gạo để xuất
khẩu.
Trong những
tháng sau đó, chỉ số giá có tăng trở lại, nhưng mức độ tăng thấp hơn nhiều. Đó là
do tài chính phải chi những khoản rất lớn cho an ninh, quốc phòng để rút quân
khỏi Campuchia và giảm quân số, cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (điện, giao
thông vận tải...) để tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu
tư của nước ngoài (FDI, ODA), cho xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, phát triển
dịch vụ xã hội, để trả nợ đến hạn và lãi tiền vay nước ngoài. Ngược lại, nguồn
thu lại gặp những khó khăn mới, như không còn nguồn viện trợ, nguồn vay và
nguồn nhập khẩu vật tư chiến lược (xăng dầu, kim khí, phân hoá học) với giá ưu
đãi từ Liên Xô. Cho nên ngân sách lại tiếp tục bội chi và lại phải tiếp tục vay
ngân hàng, ngân hàng lại phải phát hành thêm tiền để cân đối ngân sách.
Chỉ từ năm 1992
trở đi, khi nền kinh tế phát triển, GDP tăng, đời sống nhân dân được nâng cao
dần, tỷ lệ huy động GDP cho ngân sách tăng lên; mặt khác, có thêm nguồn thu mới
từ dầu thô, xuất khẩu gạo, vay và viện trợ nước ngoài mới chấm dứt được việc
ngân sách phải vay ngân hàng và cơ bản khắc phục được lạm phát.
No comments:
Post a Comment