CHẶNG ĐỜI
Đỗ Bình
Thời gian như gió
thoảng, mới ngày nào tóc còn xanh tâm hồn đầy mộng mơ hoa bướm, chớp mắt tóc đã
phai màu, từng thế hệ trong chiến tranh cũng lần lượt ra đi lặng lẽ! Thế giới
ngày nay đã thay đổi, nhiều phát minh khoa học mới đã thay dần những cái cũ nên
tư duy của con người cũng đổi thay. Nhưng có những điều không thể thay
đổi được kể cả những tiến bộ vượt bực của khoa học hiện tại dù tỏa sáng đầy hào
quang và đã mang lại nhiều phúc lợi cho nhân loại vẫn không thể thay đổi được
lịch sử và trong ký ức dân gian! Vì
trong đó có những biến cố thời đại liên quan tới vận mệnh đất nước, dân tộc, dù
có muốn quên hay cố tình xoá đi nó
vẫn lưu tồn trong ký ức dân gian và trong những trang sách sử cùng những cuốn
film làm‘‘ nhân chứng’’. Việt Nam đất nước dân số tuy đông nhưng vẫn là
một nước nhược tiểu, nằm sát bên một nước Trung Quốc cực lớn luôn có mộng bá
quyền, vận mệnh quốc gia lại nằm trong tay một nhóm bè phái độc đảng độc quyền
nên thân phận người dân có khác chi
những món hàng?!
*
Chiều trên phố Paris nắng nhuộm vàng không gian làm rực rỡ cảnh sắc, những cánh
hoa vàng thắm, những chiếc lá non ửng hồng lóng lánh dưới bầu trời xanh
ngát. Nhìn áng mây chiều lờ lững tôi chợt thấy cô đơn lòng dâng cảm một
nỗi buồn xa vắng!Từ ngàn xưa cho đến nay ít có dân tộc nào lại không có một lần
chiến chinh? Khi đất có chiến tranh người dân phải chịu nhiều đau khổ vì nó như một cơn hồng thuỷ tàn phá
thiên nhiên huỷ diệt con người và mầm sống! Lịch sử của mỗi dân tộc tuy khác
nhau, nhưng mỗi dân tộc đều có những trang thiên hùng ca ghi dấu những chiến
công hiển hách, những trận đánh lẫy lừng, và những cuộc chém giết thật hãi
hùng. Ngày nay khoa học tiến bộ những vũ khí sử dụng càng tối tân thì sinh mạng
con người càng dễ bị đe doạ, những ai đã từng trải qua trong khói lửa chiến chinh
chắc không khỏi tự hào xen lẫn ngậm ngùi mỗi khi nhắc đến? Cuộc chiến ý thức hệ
Quốc Cộng xảy ra trên quê hương kéo dài trên hai mươi năm dù đã qua lâu nhưng
vết thương chiến tranh vẫn để lại trong lòng quê hương những nét hằn sâu đậm,
những rạn nứt tình người mà thời gian chưa hàn gắn được! Làm sao có thể đếm hết
được những giọt nước mắt của mẹ gìa vợ hiền con dại đã khóc vì những người thân
đã hy sinh! Tôi lớn nên trong thời chiến làm sao tránh khỏi dấu binh lửa ? Bằng
hữu và thân nhân của tôi cũng nằm trong số ấy, người thì chết, kẻ bị tàn phế,
may lắm vài người còn lành lặn! Chiến tranh quái ác thế nhưng các bạn tôi sau
khi học xong đại học rời ghế nhà trường đều theo tiếng gọi tổng động viên lên
đường vào quân đội, và tình nguyện phục vụ ở những binh chủng oai hùng. Họ
không sợ chết, nói đúng hơn họ xem nhẹ cái chết nhưng lại sợ tiếng đời cho là
hèn yếu, trốn tránh nghĩa vụ thiêng liêng khi tổ quốc lâm nguy. Họ là những anh
hùng vô danh nguyện đem xương máu bảo vệ quê hương. Ôi thật là cao cả!
*
Tôi được đưa vào Quân Y Viện Cộng Hoà trong giờ phút sinh
tử của Sài Gòn và để lại nơi đó một
phần ánh sáng. Thê thảm hơn chỉ vài ngày sau khi miền Nam thất thủ lọt vào tay
cộng sản miền Bắc, người ta thấy một đoàn thương binh của chế độ cũ , lớp cụt
què, lớp đui mù, thân thể họ loang lổ rỉ máu, có những vết thương lở lói chưa kịp
băng, họ lếch thếch dìu nhau lê bước trông giống như đám hồn ma bóng quế từ khu
nhà mồ chui ra vì vưà bị đuổi ra khỏi bệnh viện, và trong đám người khốn cùng
này có tôi!
Biến cố ngày 20 tháng bảy năm 1954 đã chia đôi đất nước, không chỉ bằng
đường ranh giới là con sông Bến Hải, mà bằng lằn ranh ý thức hệ hai nửa
đối chọi nhau. Sự chia cắt đất nước làm người dân hai miền đau lòng
nhưng vẫn quyết liệt triệt hạ nhau! Cuộc chiến kéo dài quá lâu, quê hương
bị tàn phá bởi bom đạn, mìn bẫy, khủng bố ..vv… những thứ ấy đã cướp đi biết
bao sinh mạng người con đất Việt, khiến núi sông chất ngất xương máu! Có người
Việt Nam nào mà không mong ngày Hòa
Bình? Nhưng điều đó chỉ là ước mơ, vì Hòa Bình đúng nghĩa thì vẫn
chưa đến! Biến cố 30 tháng tư năm 1975 ngừng tiếng súng, dòng sông Bến Hải
được nối liền, mẹ con ,vợ chồng, anh em gặp lại nhau trong tình nghĩa
ruột thịt sau nhiều năm bị phân chia trong ranh giới thù nghịch. Những tưởng
chẳng có một chủ thuyết nào chủ trương cắt chia tình người mà tồn tại?
Vậy sao người dân miền Nam lại ngậm ngùi , lại sợ hãi sau khi ngưng tiếng
súng?! Phải chăng phe chiến thắng vẫn dùng bạo lực để đối xử nhau? Kể từ sau
ngày «giải phóng» dân tộc triền miên trong đói khổ, người dân miền Nam sống
trong phập phồng lo âu khi đã nhìn rõ bộ mặt thật của CS. Để duy trì quyền
lực nhà cầm quyền Hà Nội đã bất chấp mọi thủ đoạn: trấn áp, cướp nhà,
cướp của, đốt sách báo, cấm văn hóa « đồi trụy», kiểm soát chặt chẽ thông
tin báo chí và đuổi người miền Nam đi vùng kinh tế mới với muôn ngàn khổ ải…đã khiến
người dân sợ hãi tìm đường vượt biên. Ở trong các thành phố thì CS kủng
bố tinh thần người dân bằng cách cấm hội họp tụ tập. Không khí trấn áp đè nặng
lên từng khu xóm, con hẻm, góc phố… Cứ ba người tụ lại với nhau đều bị công an
kêu lên tra vấn, nếu tất cả cùng trả lời ăn khớp không liên quan đến những điều
quốc cấm ,nghĩa là bàn đến chính trị thì được thả về, nếu một trong ba người
nói khác thì cả ba phải đi cải tạo tư tưởng vì bị khép tội có tư tưởng chống đối
nhà nước!
*
Từ khi
bị đuổi ra khỏi Tổng Quân Y Viện Cộng Hòa tôi trở về nhà tiếp tục
điều dưỡng và mới được một tháng vết thương của tôi chưa đóng vẩy thì đám
«xu thời» đeo băng đỏ trong khu phố kéo đến nhà hạch hỏi; trong số quen mặt đó
có kẻ tự nhận là chủ tịch phường. Hắn lớn hơn chúng tôi ít tuổi, là một kẻ
nhiều năm trốn lính nhưng cuối cùng cũng bị bắt quân dịch đưa ra đơn vị tác
chiến. Tôi thấy thương tình nói với người bạn cùng xóm với hắn đưa về ở hậu cứ
tiểu đoàn làm việc vặt để tránh nguy hiểm chiến trường. Ân tình đó nếu hắn
không mang ơn thì cũng không nên trở mặt đối xử với chúng tôi tàn tệ thế! Hắn
vì muốn lập công với chế độ mới nên đã đến nhà bắt tôi và người bạn tôi đi tù.
Bạn tôi trước khi bị động viên vào lính là giáo sư dạy toán của một trường
trung học tư thục ở Sài Gòn. Sau khi anh
ấy bị đưa ra Bắc không lâu vì kiệt sức đã chết ở trại tù Thanh Hóa!
Tôi còn nhớ rõ buổi sáng hôm ấy một ngày khó quên trong đời, hắn dẫn đám người
đến bắt tôi đi tù trong tình trạng vết thương còn loang máu. Hắn cất giọng oang
oang kết tội bảo tôi làm tâm lý chiến là đám nhà văn nhà báo phản động thuộc
thành phần «nguy hiểm » hay xuyên tạc «cách mạng», do đó phải đi học tập
cải tạo gấp! Nếu nghe câu đó do bộ đội nói thì tôi chỉ mỉm cười, đằng này lại
là hắn nên tôi giận rung người! Không phải vì hắn dẫn đám người đến bắt tôi đi
tù mà tôi căm ghét hắn, nhưng khinh
những con người hai mặt đón gió trở cờ. Nếu lúc trước hắn thích Cộng Sản thì
tại sao lại không dám bỏ thành phố vào bưng biền hay tập kết ra Bắc, mà chỉ là
đám ăn theo làm những tên chỉ điểm hại người để tiến thân, đó là loài kỳ nhông
đổi da theo màu lá! Sau
ngày 30/04/1975 không lâu đám dấu mặt nằm vùng đó cũng bị đám CS Hà Nội loại
bỏ, và hắn cũng dẫn gia đình vượt biên nhưng bị bắt lại và bệnh chết trong
tù !
Như ngọn đèn leo
lét tôi sống qua ngày, vẫn chống cặp nạng đi lao động trong các trại tù, và hơn
một năm sau tôi mới bỏ được cặp nạng nhưng chân vẫn còn đi khập khễnh, mãi đến
nhiều năm sau đó tôi mới đi đứng bình thường. Người ta bảo: « Nhất nhật
tại tù thiên thu tại ngoại» một ngày trong nhà giam dài bằng nghìn năm ở bên
ngoài. Thời gian một ngày ở trong tù dài lê thê, nhất là đối với người bệnh
không thuốc men lại còn thê thảm hơn! Ngày tháng cứ lặng trôi mà tình trạng sức
khoẻ của tôi ngày càng kém, con mắt bị nhiễm độc càng nặng nên mất dần ánh sáng
làm tôi tuyệt vọng! Tôi nghĩ mình sẽ bỏ xác trong tù nên không còn sợ cán bộ
trại, do đó dửng dưng với hiện tại, và chẳng nghĩ đến ngày về . Trong những lần
cả trại phải học tập hội thảo chính trị tôi thường hay phát biểu nêu lên những
điểm yếu của chế độ. Họ quy tội cho tôi là hay phát biểu không đúng đường lối
chỉ đạo học tập, do đó nhiều lần bị cùm vì kỷ luật! Tôi còn nhớ hồi ở trại tù
Trảng Lớn, tôi là người đầu tiên của trại bị bị đưa vào «khối cùi» cái tên để
gọi những thành phần «hết thuốc chữa», nghĩa là không cải tạo được. Thật ra họ
chỉ muốn nhốt biệt lập nột số tù trong đó có một số giáo sư biệt phái họ nghi
là gián điệp và vài người là văn nghệ sĩ. Ngày đó tôi bị bệnh rất nặng nên chỉ
muốn họ bắn một viên đạn cho đời giải thoát nhưng họ chẳng bắn. Không phải họ
thương tình hay tiếc một viên đạn, mà họ sợ tiếng đồn trong trại tù sẽ ảnh
hưởng đến các tù nhân gây bất lợi cho cái gọi là «chính sách nhân đạo» của họ! Họ không muốn giết tôi
ngay, họ muốn tôi chết lần mòn vì bệnh tật! Ðã thế tôi lại cần phải sống để làm
chứng nhân về những trại tù CS.
Tôi có người bạn anh ấy là giáo sư
Trường Đại Học CTCT ở Đà Lạt, bị biệt giam với tôi nhưng khác conex (container
Express : thùng sắt chứa hàng của Mỹ bỏ lại) vì tội dám lý luận chống đối,
phản bác lại những điều cán bộ trại giáo huấn. Trong lúc anh bị đưa đi xử bắn,
tôi xúc cảm làm một bài thơ cho thân phận người tù.
TUYỆT VỌNG
(Kính tặng linh hồn Gs N.N.T)
“Bên hàng kẽm gai đỏ
Vô tình mấy nụ hoa
Nở giữa đêm mù lòa
Tiễn một người đi xa!
Có linh hồn hấp hối
Chẳng trăn trối nửa lời
Thượng Đế quá xa xôi
Tin Trời cũng mắc tội!
Vì chủ thuyết Mác Lê
Lời mộng mị vỗ về
Toàn những điều gian dối
Thời tội ác
lên ngôi.
Biết còn ai dám hỏi
Họng súng đã thay lời
Người nhìn
nhau hãi sợ
Bao uất hờn khôn nguôi!
Bên trong nhà tù đỏ
Cũi sắt ám cuộc đời
Có linh hồn thống hối
Nguyện thầm kinh Mân Côi.
Con từ đáy vực sâu
Trong bóng tối khẩn cầu
Chúa ơi xin cứu rỗi
Một linh hồn nổi trôi!
Con bơ vơ tuyệt vọng
Thấy hoang
mang trong lòng
Thấy hồn nhiều vẩn bụi!
Xin ban con
niềm vui.“
Vì bệnh ngày càng nặng nên tôi được thả khỏi conex và trở về khối cùi, cuối cùng tôi cũng được
cán bộ trại đưa lên bệnh xá điều trị. Tôi nghĩ: «Họ có thể kéo dài sự sống của một thân xác bệnh tật, nhưng lại không
thể chữa được sự bất mãn trong tâm hồn tôi » .
Bệnh xá là khu nhà kho xập xệ của thời chiến tranh sót lại. Giường bệnh là
những tấm ván ghép lấy từ những két đựng đạn, kê cách mặt đất một gang tay đưọc
bắc trên bốn cục gạch. Giữa nhà treo một ngọn đèn tù mù không chiếu rõ nổi trần
nhà. Bệnh xá được chia làm ba khu được ngăn bởi những tấm vách bằng carton cao
hơn đầu người. Khu dành cho những người mắc bệnh lây nhiễm, khu tổng quát gồm
đủ thứ bệnh và khu đặc biệt dành cho cứu cấp và những người bệnh thật nặng, tôi
ở khu này. Vật dụng của bệnh nhân chỉ vài chiếc lon guigoz dùng đựng nước, chứa
đồ linh tinh mà tù nhân mang theo bên mình, cùng với một tấm vải lính khổ 2 mét
được cấp khi vào trại dùng làm chăn đắp và cũng là tấm vải tẩm niệm tù nhân khi
lìa đời. Tuy vật chất thiếu thốn nhưng những y sĩ của bệnh xá lại có tình
người. Họ không dám biểu lộ ra mặt nhưng được thể hiện qua sự tận tâm chạy chữa
cho bệnh nhân. Tiếc thay cơm còn không có mà ăn huống chi đến thuốc! Họ chỉ
biết dùng lời trấn an và cho ít thuốc lá cây, còn thuốc tây chỉ dành cho «những
ca hấp hối»!
Ở bệnh xá, tôi gặp lại người bạn học thời niên thiếu, trước kia nó viết văn
làm báo. Nó tình nguyện vào binh chủng Dù, và đã để lại chiến trường Thường Đức
năm xưa một chân nên giã từ vũ khí đã lâu, thế mà hôm nay nó vẫn đi tù! Gặp
nhau trong cảnh ngộ này mừng ra nước mắt , nên hai chúng tôi thường dìu
nhau ra góc hè tâm sự. Nó bảo:
- «Tao chán sống lắm
rồi , chẳng còn tương lai ... sống thêm thừa ... chỉ khổ cho gia đình !».
Tôi so vai :
- «Tao tưởng mình chết đã
lâu rồi chứ ?!».
Chúng tôi hàn huyên về những kỷ niệm êm đềm thuở đi học, xen lẫn những bùi
ngùi về ký ức chiến trường năm xưa, mà hai đứa nghẹn ngào cho hôm nay để rồi
hối tiếc không được chết trên chiến trường!
Nó trầm giọng nói:
- «Tao tiếc là bị thương
tật nên không cùng anh em cầm súng chiến đấu với Việt Cộng đến cùng !».
Tôi bảo :
- «Mày đã làm xong bổn
phận với đất nước» .
Nó lắc đầu:
- «Chưa đâu! Đất nước
bây giờ bị Cộng Sản nhuộm đỏ, dân chúng bị kìm kẹp mất tự do, dù chúng ta ở tù
cũng không hết trách nhiệm!» .
Tôi thở dài :
- « Biết làm sao bây
giờ?! Càng nghĩ tao càng hận bọn phản chiến Mỹ và lũ con buôn chính trị quốc
tế, chúng lừa đảo, nhân danh tự do rồi phản bội chúng ta!».
Nó chua chát nói:
- «Bọn con buôn chính trị
thì chỉ biết đến tư lợi thôi!».
Nói đến thời cuộc mà lòng tôi ngao ngán buồn rười rượi! Bỗng một ý nghĩ táo
bạo chợt lóe trong đầu, tôi đặt tay trên vai bạn và khẽ nói:
- «Nếu sống chỉ thêm hại
cỏ cây kéo lê kiếp sống thừa thì, thà chết quách đi cho đỡ khổ xác?! Mày và tao
nếu mình tự tử chung biết đâu sẽ gây được tiếng vang, đánh động sự trỗi dậy của
anh em tù?» .
Nó đang trầm ngâm hướng mắt về một cõi xa bỗng quay phắc lại mặt tươi ra,
mắt sáng quắc:
- «Mày có lý! Mình
phải làm cái gì đó để phản đối chính sách phi nhân của CS» .
Nó nói tiếp:
- «Tao mường tượng sau
khi mình chết anh em tù sẽ giao động , từ trại này đồn sang trại khác anh em tù
sẽ vùng lên đòi quy chế của tù nhân theo tiêu chuẩn quốc tế» .
Tôi cười :
- « Ðược như thế là may
!» .
Một thoáng suy tư kéo chúng tôi vào yên lặng, nó cúi nhặt một viên gạch nhỏ
ném ra xa, tôi không thấy tầm đi của viên gạch, nhưng chợt nhớ lại kỷ niệm đẹp
thời đi học chúng tôi thỉnh thoảng cuối tuần từ Sài Gòn ra Vũng Tàu tắm biển,
trong lúc đùa vui thường nhặt những viên sỏi phóng trên mặt nước như muốn tâm
hồn mình theo viên sỏi bay xa vượt đại dương tới cuối chân trời. Ở trong hoàn
cảnh này, nỗi buồn vây tỏa, trong vô thức nó nhặt viên gạch quăng xa nhưng làm
sao bay ra khỏi những hàng rào kẽm gai của trại tù! Hay nó đang nghĩ cuộc đời
như viên gạch vỡ cần vứt bỏ? Tôi thở dài, nó bỗng hỏi:
-«Mày có định viết thư để
lại cho gia đình không?»
Tôi lắc
đầu buồn bã:
- « Không! Tao không muốn
để lại gì, chỉ làm gia đình buồn thêm!».
- «Còn mày? Có định viết
thư không?».
- « Không! Tao cũng nghĩ
như mày ».
Hai chúng tôi hẹn nhau hôm sau, tôi về giường sắp xếp lại mớ hành trang,
chọn bộ quân phục cũ được trại cấp để lao động, dùng tay vạt những nếp nhăn rồi
xếp cho thẳng. Dù sao đó cũng là chút di sản cuối cùng của đời lính mang theo
khi lìa trần. Sáng nay lúc gặp mặt bỗng dưng hai đứa chúng tôi chào nhau theo
lối nhà binh, không bảo nhau mà cả hai cũng chọn bộ quân phục. Khám bệnh xong
hai thằng kéo nhau ra ngồi góc hè cũ. Lòng tôi hớn hở vì sắp được đi xa, trong
ảo giác tôi thấy cảnh vật bay nhảy, màu sắc tươi mát, bầu trời xanh ngắt lờ
lững những áng mây hồng. Ðang suy tưởng, người bạn vỗ vai kéo tôi về thực tế,
dù vẫn còn tiếc nuối cảnh sắc ấy, vì đã từ lâu mắt tôi chỉ toàn là những giải
mây mờ giăng không còn nhìn được xa!
Người bạn đưa cho một nắm thuốc viên Clhoraquine, tôi cầm vốc thuốc nói:
- «Sức tao chỉ cần 5 viên
cũng đủ chết, nhiều quá thừa, phí đi! Hãy để lại cho anh em lỡ có sốt rét còn
có thuốc».
Nó cười:
-«Hay! Mày có lý, ốm như
cò ma mình chỉ cần một nửa cũng đi đứt».
Nó nhún mình phóng đi như vũ trên cây nạng gỗ về cất số thuốc dư và trở ra
chia nhau uống. Ttrong thời gian chờ thuốc ngấm, hai đứa im lặng nhìm khoảng
chân trời, và mỗi đứa theo một ý nghĩ riêng. Tôi chợt nghĩ đến mẹ tôi, một
người dân tha thiết với quê hương bằng tấm lòng, đã theo tiếng gọi non sông vào
chiến khu kháng chiến chống thực dân rất sớm. Sau khi nhìn rõ bộ mặt thật của
Việt Minh mẹ tôi bỏ trốn về thành nhưng bị bắt lại, bị đánh đập rất dã man, và
đòi đem xử bắn. May cho bà trong lúc bị giam đã được vài người bạn cứu thoát
đồng trốn về Hà Nội. Những năm sau đó gia đình chúng tôi đã trôi theo dòng
sử mệnh thăng trầm của đất nước cùng đoàn người di cư vào Nam. Ông Bà ngoại tôi
ở lại Hà Nội, về thăm quê bị đội cải cách bắt đưa ra làng đấu tố trong vụ án
«Cải Cách Ruộng Đất », rồi bị đày lên Thái Nguyên, và mất ở đó! Tôi vẫn
ghi khắc nét lo âu tiều tuỵ trên khuôn mặt mẹ, nhất là đôi mắt buồn! Bà suốt
đời đã hy sinh vì tôi, cả một đời bà ước mơ và chờ đợi nhưng không bao
giờ toại nguyện! Mẹ tôi lúc còn chiến tranh hằng cầu nguyện quê hương sớm thanh
bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến tranh lại cầu nguyện cho con
sớm thoát tù. Nghĩ đến đây dòng lệ trong tôi tự trào, suốt đời tôi làm cho mẹ
buồn!
Dòng suy tưởng lại miên man đến nàng, người mà tôi muốn quên nhưng hình bóng ấy
vẫn ẩn hiện trong tâm hồn, chợp chờn trong giấc ngủ! Tình yêu như một chiếc
bóng bên tôi, có khi theo dấu chân lăn trên đường, bàng bạc trong không gian,
và có khi ẩn trong tiếng thở dài! Tôi muốn quên nàng, quên những kỷ niệm đẹp
của tình yêu như những chùm pháo bông rực rỡ muôn sắc, rồi tan loãng, tắt lịm
vào đêm tối! Tôi sợ tình yêu làm yếu lòng, sợi giây tình ràng buộc thôi thúc
lòng mong mỏi ngày về, giảm đi nhuệ khí, tính kiên trì đối kháng với CS. Tôi
càng muốn quên thì hình ảnh của nàng cứ hiện ra trong trí như lời thì thầm vỗ
về làm hồn tôi thêm sầu nhớ. Thuở Sài Gòn chưa đổi tên, có biết bao thiếu nữ là
người yêu, vị hôn thê, vợ của Lính. Nàng cũng thế nhưng đang còn đi học. Là một
cô sinh viên Sư Phạm tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn, nhìn đời qua ngưỡng cửa sân
trường nên hình ảnh người trai thời chiến thật hào hùng qua màu áo lính trận đi
dạo phố. Cũng như bao triệu người dân Miền Nam, nàng vẫn hằng mơ ước ngày đất
nước hết chiến chinh, quê hương được thanh bình để những người lính được trở về
dưới mái ấm gia đình, sống yên vui bên những người thân. Thế nhưng khi tàn
chiến chinh, những ước mơ giản dị đó đã biến thành cơn ác mộng, những người dân
chân chính đó lại càng mất mát nhiều hơn khi đất nước thay sắc màu thể chế ,
đổi chủ. Ánh mắt của nàng không còn nét vui tươi hồn nhiên như trước và trên
môi cũng đã tắt mất nụ cười sau khi được tin tôi bị thương, tôi biết nàng chết
lặng nhưng không hề hé môi than số phận. Ôi, thật cao đẹp cho ý nghĩa tình yêu,
nhưng điều ấy đã khiến lòng tôi thêm buồn cho hiện tại, và tương lai mù
mịt, rồi sẽ ra sao ?! Trong khoảng khắc, tôi hình dung dáng nàng mong
manh tha thướt trong chiếc áo dài trắng, mái tóc dài bồng bềnh mỗi khi lộng
gió. Nàng có nụ cười rất tươi luôn thắm trên bờ môi mọng đỏ, làm sáng gương mặt
phảng phất nét thơ trong tranh; chẳng thế, các bạn gái đều xem nàng như đoá hoa
hồng của Đại Học Sư Phạm ngày nào. Chiến tranh quả tàn nhẫn đã cướp của nàng
bao mơ ước! Thôi, nghĩ đến mà ngậm ngùi, tất cả những ước mơ, hạnh phúc, đau
khổ giờ cũng đành xin giã từ . Xin chào cuộc đời và những người thân
yêu!
Đang triền miên trong suy tưởng, bỗng tiếng kẻng từ trại tù xa vọng lại làm tôi
bừng mắt. Tôi vội quay sang nó hỏi:
- «Mày đang nghĩ gì ?» .
Nó thổn thức:
- «Tao đang nghĩ về mẹ
tao và vợ tao » .
Tôi lại thở dài….im lặng và trân trọng phút thiêng liêng của nó . Chúng tôi
lại chìm vào im lặng để sống trong cõi riêng thì bỗng có tiếng la cứu cấp, hình
như có người nhập viện? Chẳng ai rủ nhưng hai đứa cùng đứng dậy mò qua xem mới
biết người vừa chết là tù cải tạo. Anh ấy thời trước là Bác Sĩ Quân Y, vì lao
động quá nên kiệt sức!
Tôi bảo bạn:
- «Mày hỏi xem tên anh ấy
là gì ?».
Nó gắt lên:
- «Biết làm quái gì!
Trước sau gì chẳng gặp!».
Tôi cười đùa :
- «Biết đâu ở chốn đó
cũng có ‘biên chế‘ như đây thì sao!».
Nó bảo:
- « Mày điên hả? Hơi đâu
mà lo xa!».
Tôi lắc đầu nhìn nó và định trở về giường nằm đợi thuốc ngấm «chờ đi»,
nhưng tôi mới xoay người thì thằng bạn đưa tay kéo tôi lại bảo hãy im lặng theo
dõi lớp tuồng cuối.
Người tù nhân nằm đó quần áo tả tơi thân hình còm như que củi, anh ấy chết trong cô đơn không thân nhân bạn
bè thân thiết. Cái chết thật ttrầm mặc chẳng xôn xao lay động những toán tù lao
động gần đó! Số anh quả hẩm hiu! Chết ở trại còn được cỗ hòm, gục trên đường
lao động đưa đến bệnh xá thì chỉ được vài miếng ván gỡ từ nhà cũ bỏ hoang ra,
thêm dăm ba mảnh ván chuồng lợn ghép vội thành một chiếc hòm! Chúng tôi chứng
kiến thủ tục tẩm niệm tống táng người tù rất sơ sài, nắp quan đậy không kín vì
những mảnh gỗ lệch! Mấy người khiêng là những tù nhân ở những trại khác được
gọi đến , trông họ như những bộ xương biết đi, chẳng ai còn giọt nước mắt nào
để tiễn đưa người quá cố! Quan tài của người bác sĩ trẻ xấu số được vùi sâu ba
thước đất một cách vội vã, những mảng đất lùa trên quan tài khua động làm lớp
bụi bay. Lớp đất ấy đã vùi theo một tài năng trí tuệ của đất nước trong âm thầm
vào lòng đất!
Tôi thầm nghĩ:
- «Dù sao anh vẫn còn may là được các bạn tù khắc tên
trên tấm bia mộ! Thế là xong, thôi hãy
ngủ yên đi anh, từ nay sẽ chẳng ai có thể đày đoạ anh được nữa ... Anh ra đi
vẫn còn được hai đứa chúng tôi đưa tiễn. Đến lúc chúng tôi ra đi, ai sẽ tiễn
đưa chúng tôi đây?!».
Tôi thầm đọc cho anh một câu kinh, và thúc tỉnh
mình là người Công giáo, chợt nhớ Điều
răn của Chúa:Chớ giết người». Mạng sống con người do Thiên Chúa ban nên không thể tự ý định đoạt về mạng sống
của mình mà tự tử được, vì đối
nghịch với tình yêu của Thiên Chúa hằng sống. Chúa ơi ! Xin Ngài tha thứ
cho tâm hồn và thân xác yếu đuối của con, sự chịu đựng đau khổ của con đã ở tận
cùng!!
Nó thấy tôi cứ đứng trầm ngâm nên hối thúc trở về bệnh xá. Chứng kiến cảnh
đau lòng ấy tôi thở dài nói với bạn:
- «Ðời người thế là xong,
tất cả rồi cũng trở về với cát bụi! Lúc sống mọi thứ mới đáng cần, chứ chết rồi
tang lễ có to hay nhỏ nào cần thiết phải không?!».
Lòng tôi ngậm ngùi, cười chua chát nói thêm:
- «Con người ai chẳng muốn
bảo tồn và kéo dài sự sống, Tao cứ tưởng một người tù
sống chẳng làm gì được trước họng súng thì cái chết trong lúc đang lao động sẽ
gây ầm ĩ ,xôn xao, ai ngờ cũng chỉ là chiếc lá rụng, chẳng có đám tù nhân nào
nổi dậy! Cái đói và tiếng kẻng cơm tù dã làm nhụt chí tù nhân! Chết thầm lặng
như thế này nào khác cục đất, chỉ rảnh tay bọn cai tù?! Thà là chúng ta gắng
cắn răng chịu khổ sở mà sống thì bọn đầu não CS vẫn phải phái người xuống canh
giữ mình vẫn khoái hơn phải không?».
Nó cười thích thú:
- «Mày có lý ... đám tù
mình chết hết ai làm nhân chứng về tội ác Cộng Sản?!».
Hai đưa tôi nắm chặt tay nhau, cái xiết tay mang ý nghĩa : chúng tôi phải
sống.
Chúng tôi gặp bác sĩ bệnh xá cho biết đã dùng thuốc quyên sinh. Bác Sĩ
Trưởng bệnh xá há hốc mồm nhìn chúng tôi vì đây là lần đầu tiên có vụ tự tử tập
thể. Trong lúc tiêm thuốc giải chờ xúc ruột, chúng tôi được «lên lớp»! Mấy ngày
sau một chính uỷ chẳng biết từ đâu đến cho gọi chúng tôi lên và bắt làm tờ kiểm
điểm. Họ quy tội chúng tôi là chống đối, vì tự tử là hành động tiêu cực, tiêu
diệt sản xuất và bắt chúng tôi xuất viện để về trại lao động ngay hôm đó. Kể từ
buổi chia tay đó chúng tôi chẳng còn gặp nhau lần nào nữa, nhưng lòng tôi vẫn
khắc sâu hình bóng nó. Sau này tôi nghe
một số bạn tù chính trị ở Mỹ kể, nó đã được tha về nhưng gia đình không còn ai,
vợ con đã vượt biên không tin tức! Nó nộp đơn chờ đi diện HO nhưng chờ lâu quá
nên đã vượt biên chẳng may chiếc tàu của nó
gặp cơn bão nên không bao giờ tới bến! Riêng tôi may mắn hơn, người con
gái năm xưa là vợ chung thủy vẫn chờ
đợi tôi và cùng nhau trôi giạt xứ người đến mãi hôm nay.
*
Xa quê hương đã lâu nhưng tôi vẫn chưa một lần về! Sau mấy chục năm “giải
phóng(!)”xã hội Việt Nam hôm nay dù
có phát triển về mặt đô thị, mức
sống người dân có khá hơn nhưng nền kinh
tế thị trường đã biến xã hội trở nên tha
hóa : đạo đức, văn hóa suy đồi. Nạn quan liêu, bè phái, tham nhũng đục khoét tận xương tủy đất nước. Nhà cầm quyền cắt đất cho ngoại bang thuê đặc khu kinh tế 99 năm như thế có khác gì bán
nước ?!
Sau bao biến cố đau thương, người dân Việt
hôm nay bừng tỉnh nhận thức được cái họa mất nước gần kề vì những tài
nguyên, đất đai, bờ biển đang bị lấn chiếm, mất
dần do mộng bá quyền của Trung Quốc.
Người dân phẫn uất xuống đường phản đối chính quyền, họ không còn
sợ hãi trước bạo lực mà can đảm dấn thân không sợ tù đày. Rải rác khắp cả nước
từ gìa, trẻ, thanh niên nam, nữ gồm đủ mọi thành phần : sinh viên, trí
thức, văn nghệ sĩ đến người công nhân, nông dân, đảng viên ly khai, họ
đứng lên đấu tranh đình công bãi thị, đòi nhà, đòi đất, đòi nhân quyền, tự do
tôn giáo. Ngày xưa lúc chúng tôi còn ở tù thường gặp những người cán bộ cuồng
tín giáo điều vì mê muội tà thuyết CS nên trong lòng đầy thù hận, xem chúng tôi
là kẻ thù cần phải tiêu diệt, do đó đã hành xử với chúng tôi không còn nhân
tính! Ngày nay cách nhìn về đất nước đã thay đổi, bức tường Berlin bị đập bỏ,
Liên Bang Xô Viết tan rã, chủ thuyết Cộng Sản bị cáo chung, và ở VN còn lại đám
cầm quyền độc tài. Thời thế đã chuyển mình nên đã có những người đảng
viên xé thẻ đảng, trả thẻ đảng đứng về phía dân tộc chống lại bạo uyền CS
qua các phong trào dân chủ, dân oan không còn sợ đảng, sợ công an đàn áp, cầm
tù. Người dân nghèo miền
Trung đã xuống
đường đòi quyền sống,
họ
phản
đối nhà cầm quyền đã bao che cho công ty Formosa sa thải chất độc làm nước biển
bị nhiễm độc khiến biển chết, mọi sinh thái đều chết theo!
Sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ, các
bằng hữu của tôi tan tác phiêu bạt muôn phương, có kẻ chết trong trại tù, có kẻ
nằm sâu trong lòng đại dương trên con con đường vượt biển tìm tự do, trong đó
còn biết bao người rơi vào thảm trạng thất lạc mẹ cha, vợ con, một thân bơ vơ
nơi xứ người. Người ở lại thì lạc loài cô đơn trên chính quê hương mình! Cho
đến ngày nay vẫn còn nhiều người sinh sau cuộc chiến muốn bỏ nước ra đi
tìm tự do. Người ta không thể lúc nào cũng sống với quá khứ vì tương lai mới cần
thiết và quan trọng hơn. Phải chăng người ta có thể chết cho quê hương,
nhưng vì tự do lại dám bỏ quê hương mà đi ?
Chiến tranh và tù ngục đã qua lâu nhưng nhiều đêm những hình ảnh đó
vẫn len lỏi vào trong giấc mơ làm tôi bàng hoàng thức giấc, nhìn quanh mới biết
mình đang ở xứ tự do mà lòng nghe nhẹ nhõm! Tôi đã quên những bầm dập nhọc nhằn
trong tù năm xưa nên lòng không còn oán hận và cảm thấy yêu cuộc đời. Nhưng vẫn
sợ một ngày nào quê hương sẽ bị sát nhập
vào Trung Quốc, ngày đó mới thật sự mất tất cả!
Paris cuối tháng tư trời
gío lạnh, tâm hồn tôi cô đơn vì nhớ bạn, nhớ quê hương, khiến lòng tôi ngậm
ngùi!
Đỗ Bình
No comments:
Post a Comment