CHIẾC ÁO XƯA
Mấy ngày hôm nay gần tết, chạy xe thồ
được khá khá, nhìn lại chiếc áo lính củ sờn vai, Tâm có ý tìm một chiếc áo lính
khác để mặc, nếu có loại rằn ri thì tốt, loại vải này mặc bền và ít bắt nắng. Vừa
thả một người khách hàng xuống khu Chợ Cũ. Nơi này, người dân thường mang những
món hàng linh tinh, cũ mới như quần áo, vật dụng trong nhà, sách vở, radio,
cassette... bày bán trên vỉa hè. Tâm lái xe rề rề dọc theo lề đường nhìn dòng
người đi qua lại, kẻ bán người mua, để ý xem có cái áo lính nào không. Khi đến
đầu con hẻm nhỏ, Tâm nhìn thấy một đôi giày lính, một chiếc áo rằn ri, một cà
mên, bi đông đựng nước cùng vài vật nhỏ khác được dặt trên tấm nhựa rách trãi
trên nền đất, phía sau là một người đàn bà lớn tuổi, ngồi đầu gục, yên lặng chống
tay lên cằm không cử động. Tâm dựng xe,
ngồi xuống trước mặt cụ, hai tay cầm chiếc áo rằn ri ngắm nghía trước sau, bỗng
Tâm giật mình khi nhìn thấy vết cháy xém ở góc trái cổ áo, trên đai vai, trên
túi áo, bảng tên thêu bằng chỉ đen đã bị tháo ra vẫn còn để lại dấu mờ chữ LINH
đen nhạt, trên cánh tay có huy hiệu "Đầu Cọp Đen". Tâm khựng lại, hai
tay cầm chiếc áo áp vào mặt một hồi lâu cho đến khi bà cụ cất tiếng hỏi:
- "Anh có sao
không?" Tâm như mới hồi tỉnh lại.
Anh hỏi:
- " Cụ ơi, ở đâu mà
cụ có những món đồ cũ này quý quá cụ". Bà trả lời:
-
" Đồ này của con dâu tôi, chồng nó đi tù, nó ở nhà vất vả nuôi
con, đồ đạc trong nhà bán dần, nhưng nó không chịu bán những đồ kỷ niệm của chồng
nó. Hôm nay nó bệnh nằm liệt giường, nhà
gần hết gạo, tôi mang những món này bán để mua gạo nấu cơm cho nó và thằng cháu
tôi, bệnh mà ăn độn bo bo hoài thì bao giờ hết bệnh".
Nghe xong, Tâm đứng lên đi về chiếc xe
lấy gói tiền để dưới yên xe rồi lục hết tiền trong túi quần, xếp lại ngay ngắn,
đến ngồi xuống trước bà cụ đưa xấp tiền rồi nói:
- "Con chỉ có ít tiền
này để xin chiếc áo mà thôi, xin cụ nhận lấy".
Sau đó Tâm cầm chiếc áo, vội vàng dắt
xe sang bên kia đường, đứng ở sau gốc cây quan sát bà cụ. Bà cụ cứ loay hoay đếm xấp tiền nhiều lần, bà
tỏ vẻ ngạc nhiên, sau đó nhìn dáo dác, rồi đi tới, đi lui như tim kiếm ai đó rồi
ngồi lại nhìn người qua lại, nhiều lần như thế. Cuối cùng, bà nhỏm dậy túm tấm
nylon có chứa mấy món đồ rồi chậm chạp đi vào ngỏ hẻm. Lúc này Tâm vội dắt xe
theo sau bà đến cuối hẻm, nhìn bà đẩy cửa đi vào một cái nhà nhỏ tối tăm. Tâm định theo vào nhà, nhưng rồi đứng lại suy
nghĩ một thoáng rồi dắt xe ra hẻm. Tâm định mang chiếc áo về nhà hít mùi áo cho
đã, nhưng Tâm mới ra đầu hẻm thì anh lại có khách hàng cần chở đi. Trong ngày ấy, mỗi lần thả khách xuống, lái
xe về nhà, dọc đường lại có khách hàng khác, chạy cho tới chiều tối Tâm mới về
nhà. Vợ Tâm nhìn anh dáng vẻ phờ phạc
nhưng miệng anh vẫn nở nụ cười. Nàng như
muốn hỏi một điều gì, thì anh vội nói:
"ăn cơm xong anh sẽ kể một chuyện xưa cho nghe".
Cơm nước xong, vợ trải chiếc chiếu lên phảng gổ, cô con gái duy nhất, Mi Mi cũng xin ngồi chung với mẹ để hóng chuyện. Tâm mang chiếc áo rằn ri vừa mới "mua" sáng nay. Anh chỉ vết cháy xém ở cổ áo và cầu vai, bảng tên người chủ chiếc áo mà anh với người này có một dấu ấn kỷ niệm trong một trận chiến mà anh không bao giờ quên. Tâm kể:
Mãn khóa trường Hạ Sĩ Quan và khóa huấn luyện
Biệt Động Quân, Tâm được phép thăm gia đình rồi lên cao nguyên trình diện bộ chỉ
huy tiểu đoàn, để được đưa đến một doanh trại đại đội biên phòng, rồi chuyễn đến
trung đội của thiếu úy Linh, Đơn vị nằm trên một ngọn đồi đơn độc gần biên giới
Cao Miên. Ngọn đồi nằm giữa những cánh rừng
bạc ngàn cây lá, xa xa vài ngọn núi đá vôi nhô lên trên mặt rừng xanh như những
cánh hoa tím hé nở trên bãi lục bình dày đặc trên giòng sông chảy chậm.
Từ một thư sinh ở tuổi mộng mơ nơi phố
thị, nay là một chàng lính thú "trấn thủ lưu đồn". Hàng ngày, buổi sáng, tia nắng chưa lên đã
nghe bầy chim hót vang trên cành cây kẻ lá. Trưa lên, cơn nắng hanh hao hâm ngọn
gió Nam Lào, xuống con suối dưới chân đồi, ngâm mình trong dòng nước mát. Chiều về, nắng vàng liêu xiêu vươn làn khói lam từ những nhà sàn trong bản làng
người Banar, Jrai nơi rừng hoang mông muội.
Đêm tới, nhìn sao lấp lánh, vào những đêm trăng nở dập dềnh trên ngọn lá, những
làn mây dềnh dàng theo gió như mãng lụa soa lướt êm trên nền trời trong xanh, vắng
lặng, Tiền đồn như một cõi xa xăm "nắng mai ai biết, mưa chiều ai
hay".
Đại úy Long, trưởng đồn lính này, xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân, kinh nghiệm chiến thuật, dày dạn chiến trường nên ông được giao phó một đại đội đóng trên ngọn đồi, đèo heo, hút gió. Đồn lính này nhằm để kiểm soát đường chuyển quân của bộ đội Bắc việt từ miền Bắc và từ Cao Miên xâm nhập vào các tỉnh miền Nam, nên nó là một cái "gai" mà Bắc quân ngày đêm tìm mọi cách "nhổ" nó đi.
Ngọn đồi có sườn phía sau và hai bên sườn độ dốc cao và đá lởm chởm chỉ có mặt trước đồi là dãi rừng thấp, sườn thoai thoải xuống tới một con suối chắn ngang bám theo chân đồi, vì thế địch muốn tiến quân lên đồi thì chỉ có hướng này. Ban ngày, binh sĩ trên cao và máy bay trên không quan sát xuống toàn cảnh khu rừng có thể thấy rõ mục tiêu tấn công của địch tấn vì thế địch quân muốn đánh chiếm ngọn đồi này, họ chỉ dựa vào bóng tối ban đêm với chiến thuật pháo trước, đánh sau (tiền pháo hậu xung) và muốn chiếm đồi họ phải lội qua dòng suối chắn ngang như là cách bờ biên giới.
Nhờ hai lợi điểm, ở trên cao và con suối chắn ngang. Đ/úy Long cùng binh lính lập giao thông hào, hầm công sự, hố cá nhân ở rãi rác lưng chừng đồi để tránh đạn pháo của địch lên đỉnh đồi. Ban ngày, ngụy trang như hội họp, sinh hoạt tại ban chỉ huy ở trên đỉnh (địch quân đặt ống nhòm nhìn thấy), chiều tối rút tất cả mọi binh lính xuống lưng chừng đồi, nằm rãi rác trên miệng hầm, hố cá nhân, khi nghe tiếng pháo của địch là nhảy xuống hầm phòng thủ. Ông dồn hết hỏa lực, súng cối, ổ đại liên, trung liên, súng cá nhân, lựu đạn... nhắm vào vị trí con suối này chờ lúc địch quân tấn công, bì bỏm lội qua suối là đồng loạt nhả đạn. Ngoài ra ông cho một trung đội lúc chạng vạng tối qua bên kia suối nằm phục kích. Khi địch tấn công, binh sĩ bắn về hướng địch bằng những tràng đạn thật dòn, xong rút nhanh qua bờ suối về hầm phòng thủ, mục đich làm chậm đường tiến quân của địch để mình có thời gian phòng thủ và đối phó.
Đúng như tiên liệu của đại úy Long, Một đêm, địch quân tấn công, pháo dữ dội trên đỉnh đồi (nơi đó không còn có ai). Bên kia suối, Th./úy Linh ra lệnh trung đội bắn những tràng đạn về hướng địch rồi mau chóng rút lui, Sau khi đã qua suối, Th/úy Linh, kiểm điểm quân số, thiếu ba người: Trung sĩ Tâm và hai binh sĩ khác. Linh vội bốc máy truyền tin gọi Đại úy Long xin được trở lại bờ suối bên kia cứu 3 người lính:
- A lô! Thùy Linh gọi Thanh Long 3 đứa con kẹt bên kia suối. Tôi
phải qua cứu! Đáp:
- Vi-Xi đã đến gần suối, Tao sắp cho "nổ!"! Trả lời:
- Tôi phải cứu "con cái tôi"!
Đáp:
- Mày mà quay lại suối, Tao đưa mày ra tòa án quân sự!
Mặc kệ, Thiếu úy Linh thảy ống nghe vào máy, rồi ngoắc hai người lính kế bên chạy ngược về hướng suối, một toán lính khác chạy theo yểm trợ. Đến bờ suối, Linh thấy hai người lính cỏng Tâm vẫn còn bên kia vì không sức lội suối. Linh gọi hai người lính khỏe cỏng Tâm qua suối thật nhanh, còn Linh quay về hướng địch, đi thụt lui nhả đạn, toán lính trên bờ cũng bắn theo yểm trợ. Đến khi Tâm qua được bờ suối, Linh mới lội nhanh về. Vừa lên được bờ thì Linh bị trúng đạn ngã xuống, toán lính vội vực lên, cõng Linh xuống hầm núp đạn. Linh thiếp đi, không còn nghe tiếng pháo, đại liên, súng cá nhân...nổ rền cùng với tiếng gào thét của những kẻ bị trúng đạn vang lên từ lòng suối trong đêm tối.
Sáng hôm sau, khi quan sát chiến trường,
vài xác chết của địch kẹt trong bụi cây, bờ suối. Nhiều vết máu và một số súng
đạn đã rơi rớt trên đường rút quân.
Về phía đại đội, Th./úy Linh bị thương
một bên cổ và vai, máu thấm ra miếng vải băng đỏ thẩm. Trung sĩ Tâm bị đạn vào mông và bốn binh sĩ khác bị thương do
những mảnh đạn pháo kích của địch. không có ai tử thương.
Đại úy Long đến thăm Th/úy Linh và năm
thương binh khác đang nằm trên cáng chờ máy bay trực thăng chở đi bệnh xá.
- Trong trận đánh tối qua, tôi có lổi với Đại úy. Tôi xin chịu mọi
hình phạt về lổi đó".
Ông trả lời:
- Thôi, mình đã thắng, tôi cầu mong anh mau
bình phục".
Nói xong, máy truyền tin reng reng, Đại
úy Long bắt máy nói chuyện, xong quay lại chào mọi người rồi vội vã chạy đi lo
công việc khác.
" Ông Thiếu úy ấy cứu
ba phải hông? ông ấy bây giờ ở đâu?"
Đáp: "Ừ!
ông ấy cứu ba, hiện nay ông đang ở
tù"
Mi nói: "Ba phải giúp gia đình ông
đó nha!"
Đáp: "Ba sẽ nhờ đến má và con
cùng giúp".
"Thằng Khoa đi bán vé số để dành tiền mua kẹo cho anh đấy!"
Nghe đến đây, tự dưng ông Linh khựng lại,
ngồi bất động, mắt nhìn xuống thật buồn.
" Hai con không muốn xa nhau, thì sau
này có muốn sống cùng nhau không?".
Cả hai cùng nói:"Dạ".
Ông Linh hỏi ý kiến vợ chồng Tâm cũng
được đồng ý tác họp cho chúng nó. Ông Linh nhìn mọi người rồi nói như một lời
tuyên bố:
"Đây là một Đám Hỏi tại Phi Trường",
vừa dứt lời thì loa phóng thanh kêu mọi
người đi định cư phải ra cổng để lên máy bay.
"Ai mua vé số,,hô,,,
hông!"
Mi Mi nối tiếp giọng rao của chồng:
"Ai mua vé số hô. ô.hô.ô. hông...hông...hông..!!!..."
và lập lại lời rao vài lần. Giọng ngân
Mi Mi kéo dài và kéo dài... trong veo như tiếng chuông pha lê có ai vừa mới gỏ.
Bé Nhi Nhi mỗi lần nhìn mẹ rao hàng, nó bật ra một tràng cười tươi vui nắc nẽ.
Tiếng cười trẻ thơ, hồn nhiên, ngây ngất của đứa cháu gái đã mang niềm vui bao
la cho ông bà nội ngoại. Bà Linh nhớ lại tiếng cười của bà trước đây, sau những
chặng đường vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn, lần đầu tiên nhìn chồng tại trại tù,
bà cũng cười, nhưng "Cười là tiếng khóc khô không lệ". Nghĩ tới đây, bà cảm nhận như có một vị mặn
nào làm ướt làn môi, bà vội bồng đứa cháu, úp mặt bà vào cái má phúng phính của
nó như che dấu một niềm cảm xúc vừa mới chợt đến.
Lữ Long Phước
No comments:
Post a Comment