SÔNG LẠC ĐƯỜNG VỀ
Cao Hoàng
Biên cương nẻo cũ thôi đành...
Có nghe tê tái khúc hành quân xa
Đi
tới đoạn đường này, tôi bắt đầu thấy gió mát, một mùi nồng thoảng rất lạ của
thiên nhiên bốc lên từ một giòng nước, tai lại nghe thấy những âm thanh nhỏ
rung lên từ những lay động của biết bao nhiêu cành lá xanh tươi. Đương bắt đầu
đổ dốc và chẳng bao lâu tôi đã trông thấy mặt nước ở cuối con đường. Chúng tôi
đi mau gần như chạy trên đường đá rộng này mà hai bên mọc những cây bã đậu cao
lớn mình đầy gai nhọn. Có đứa bạn bảo tôi: cây bã đậu là cây ngô đồng vì “cây
ngô đồng không trồng mà mọc”- ai mà trồng
cây bã đậu trong vườn đâu! Có đứa bạn lại bảo cây ngô đồng bên Tầu mới có, chứ
nước mình chỉ có cây vông để làm guốc hoặc là cây hoa gạo thôi. Tháng ba hoa gạo
nở ra đỏ như máu dính trên cây, cũng là lúc khí trời oi bức làm cho những con
chó phát điên. Còn cái thằng bạn tên là Điểm đang đi bên cạnh tôi thì cho rằng
cây ngô đồng chỉ là cây ngô đồng, không phải cây gì khác. Tốt hơn hết là dẹp
cái cây ngô đồng của tôi sang một bên và nó chỉ cho tôi thấy dưới dốc có ba đứa
con gái đang ngược chiều đi lên, nói cười ríu rít.
Đó
là Túy, Hà và Kim Lan; ba đứa học cùng lớp tôi hôm nay mặc đồ bà ba, tay cầm
nón, xách guốc, xách giỏ. Ba đứa con gái thấy chỉ có hai đứa con trai thôi đâu
có sợ gì. Hà nhăn răng cười dọa, giơ cao tay cầm guốc như muốn bổ xuống đầu
tôi:
-Có
biết lội không mà đòi đi tắm sông, ông nội! ma da bẻ giò bi giờ.
Hà
ngồi cuối lớp bên con gái nhỏ tuổi hơn tôi nhiều mà lúc nào nó cũng làm như nó
là má tôi vậy; nếu nó là con trai tôi đã vật cổ nó xuống đất rồi. Hai đứa kia
không nói gì, lung liếc mắt cười.
Độ
này tôi bắt đầu để ý đến mấy đứa con gái học cùng lớp. Ba đứa này luôn luôn đi
cặp mà luôn đi trể giờ thầy Bùi Luận. Lớp học thường đã học mười lăm phút mới
thấy chúng nó lấp ló ngoài cửa lớp. Thầy Bùi Luận dễ tính lắm, a hèm một tiếng
lớn, thế là chúng nó cười rúc rích như chuột rồi từng đứa hiên ngang đi vào. Rõ
ràng là con gái đẹp thì nó không ngán ai hết, kể cả ông thầy. Tuy thế chúng đi
thật sát vào bàn đầu chỗ tôi ngồi vì còn ngại cây thước khá dài của thầy có thể
gõ trúng. Hà đi vào trước rồi tới Kim Lan và sau cùng là Túy. Cả ba đứa con gái
mới lớn, năm trước ngực bắt đầu phồng lên, đen đen như là tụi nó có lận hai
trái mầng quân bên trong, thế mà năm nay đã thành ba kiều nữ. Túy đi sau cùng,
người mảnh mai, da trắng hồng, tóc nâu đen sợi nhỏ tha thướt, có khi quệt cả
vào tay tôi, biết có cố ý không?
Bỗng
thằng Điểm quay lại nói lớn làm tôi hết hồn:
-Túy
ơi, Túy đẹp quá trời, Hào thương Túy rồi đó.
Cả
ba đứa con gái đứng phắt lại. Túy không nhìn thằng Điểm mà nhìn tôi, môi cong
lên:
-Trò
Hào, trò ăn nói gì bậy bạ quá vậy, tui méc ông thanh tra cho trò biết thân.
-Tôi
đâu có nói gì đâu, thằng Điểm mà!
-Trò
mới nói đó, ai cũng nghe hết, có chứng Hà với Kim Lan nè.
Hà
với Kim lan mỗi đứa một câu, giọng khoan khoái:
-Ừa
ừa đúng đó!
-Hết
đường chối cãi rồi!
Chết
mẹ chưa! tôi bước đi mà lòng buồn muốn chết. Lỡ ba đứa nó kéo tới văn phòng mà
nói với cha tôi thì rồi đời! Bao nhiêu niềm háo hức khi cái thằng Điểm du côn mắc
dịch này rủ tôi đi tắm sông lần đầu với nó tan theo mây khói. Ra tới bờ sông
tôi vẫn còn thắc mắc không hiểu sao Túy lại lộn tiếng tôi với giọng thằng Điểm,
mà không lẽ hai đứa kia cũng lộn nữa sao! Nhưng tôi cứ giận thằng Điểm, tại sao
lại đi kiếm chuyện với mấy đứa con gái để bây giờ thêm rắc rối. Tôi nhất định
ngồi bên bờ sông coi một nguời câu cá bằng hột bắp luộc, mặc cho thằng Điểm
nhào lộn dưới sông, không thèm nhờ nó tập bơi.
Liên
tiếp mấy ngày hôm sau, tôi hồi hộp chờ đợi cha tôi gọi lên trị tội, nhưng chuyện
đó mãi không xảy ra. Buổi chiều tôi thường đi học rất sớm, hay thơ thẩn ở khu rừng
cây trước sân trường. Đó chẳng phải là khu rừng hoang vì có những lối mòn quanh
co xuống dốc mà chỗ thấp nhất là một giòng suối. Gần đó có cái nhà chỉ có mái với
cột, ở giữa là một hồ nước lớn; người ta gọi là Giọt và đến đó tắm giặt. Phía
ngoài bìa rừng có rất nhiều me dại và cây phượng, hè đến thì nở hoa đỏ rực và
lũ ve kêu ran. Cái lũ ve này hình như được chỉ huy bởi một ve nhạc trưởng: thỉnh
thoảng chúng đồng loạt im bặt, khiến không gian trống vắng làm tôi nghe được tiếng
suối chảy róc rách và tiếng những đứa trẻ nô đùa dưới hồ nước; rồi một cô ve giọng
tốt độc xướng khá lâu, sau đó tất cả lại đồng loạt hòa tấu khúc ca mùa hè rền
rĩ nỉ non. Nhưng bây giờ còn lâu mới đến hè.
Hai
năm trước theo cha đến đây, ông chỉ cho tôi miếng đất hình tam giác vuông, hai
cạnh vuông là đường Ngô Quyền và một cạnh dài của sân vận động thành phố; cạnh
kia là một đường nhỏ tôi không nhớ tên. Cha tôi bảo sẽ xây trong hè này năm lớp
học của trường trung học ở đây, con không phải học nhờ trường tiểu học nữa.
Theo ngón tay ông chỉ thì năm lớp học sẽ song song, và cửa quay mặt ra đường
Ngô Quyền, dĩ nhiên sẽ xây lùi vào trong một chút để có chỗ chào cờ. Tôi năm đó
mới học lớp sáu nhưng đã ti toe chút phong thủy nên bàn với cha rằng: xây như vậy
trên miếng đất không nở hậu sợ không tốt. Nếu xây dựa lưng vào sân vận động sẽ
khá hơn. Ông bảo ông cũng biết thế, trường học hay thư viện được xếp vào hành mộc,
một hành yếu nhất trong ngũ hành, và không nên quay mặt về hướng Nam là hành hỏa,
sẽ tự cháy rồi biến thành tro bụi; Mộc là một hành nghiêng về văn học nhệ thuật
thích hợp với văn nghệ sĩ, nên họ thường mệnh yểu; nhưng bản vẽ đã được chấp
thuận trước rồi. Sau này ông sẽ đóng cột ở hai đầu thuộc đường Ngô Quyền để
không cho xe hơi đi qua, như ông đã làm ở trường tiểu học Lý Thường Kiệt Hà Nội.
Khu rừng trước mặt sẽ bị ông hoặc các hiệu trưởng sau lấn chiếm từ từ, lúc đó
miếng đất hình tam giác sẽ biến dạng. Ông nghĩ chính quyền tỉnh chắc sẽ lờ đi.
Tôi vốn mê khu rừng đó, thích lắm và không bàn nữa.
Lúc
trở lại lớp học, cửa hé mở, tôi thấy Túy ở trên bảng đen đang viết vẽ cái gì
đó. Cũng lạ thật, vì Túy không bao giờ đi học một mình sớm như vậy. Trông thấy
tôi, Túy tươi tỉnh hẳn, không cong cớn như bữa hôm nọ trên dốc bờ sông:
-Túy
bỏ quên bài tập lý hóa ở nhà rồi, làm ơn cho Túy mượn cái xe đạp chạy về nhà
chút xíu đi.
Lớp
học vắng lặng, bàn ghế nghiêm trang quá, ánh nắng buổi chiều bắt đầu chiếu
nghiêng qua hai cửa sổ lớn làm cái áo dài trắng của Túy bừng sáng trước bảng
đen, làm cho câu nói đó một âm vang đặc biệt-vì đó cũng là lần đầu mà Túy xưng
tên với tôi với một cái giọng hết sức ngọt ngào.
Đã
nhiều năm chúng tôi cùng học một lớp. Chúng tôi biết rõ từng căn nhà của nhau,
cha mẹ và cả anh em những đứa bạn cùng lớp: nhà thằng Hồ Thân có cây me cao lớn
lắm, anh em nó không đứa nào dám leo, chỉ đứng dưới mà thọc. Hồ Thân rất nghiêm
trang và học giỏi, Hồ Túc thì rất vui vẻ, sẵn sàng thọc một trái đu đủ cho tôi
mang về. Nhà thằng Quáng có một vườn nhãn, tới mùa nhãn chín phải lấy rọ tre bọc
các chùm nhãn lại không thì lũ dơi phá hết. Đến nhà nó vào lúc nhãn chin, nó
cho ăn không biết đường về. Nhà thằng Quý không có gì hết, ở ngay bên cánh đồng;
muốn cầy ruộng thì đến đó mà cầy với cha nó. Cầy đã rồi thì cha nó bắt nhậu đế,
hút thuốc lào, say gần chết. Nhà thằng Nương bao nhiêu là cây trái lá hoa, lại
có cả hoa biết nói. Tôi đến chơi rút khẩu cầm ra thổi, nàng ca theo giọng Huế
mơ hồ, cũng thấy long hơi bâng khuâng. Còn nhà Túy ư? Ngày nào tôi chẳng đạp xe
qua: một căn nhà kiểu Tây lại lợp ngói âm dương, toàn những cột kèo đen thui.
Nhà có vưởn sau rộng lắm, không biết bao nhiêu là loại cây mọc lỉnh kỉnh trong
vườn: nhãn, ổi, thị, khế, thanh long, thanh trà, vú sữa, bình bát, mầng quân, dừa
lửa và bao nhiêu cây sứ cây lựu nở hoa tưng bừng. Nhưng không có đứa con trai
nào dám đến: ở căn giữa lúc nào cũng có cha Túy ngồi viết chữ Tàu trên cái bàn
đen trước bàn thờ, tường cũng treo toàn chữ với tranh. Cha Túy là ông nho nói
chữ thánh hiền. Chúng tôi không đứa nào có được ba chữ lận lưng, sao mà dám đến.
-Vậy
chứ Hào có cho Túy mượn xe không? Túy lập lại.
-Ừ
được mà, nhưng xe của tôi có cây đồng dông, làm sao Túy đi được?
-Vậy
chứ Hào không biết chở Túy à?
Túy
trả lời rất nhanh rất gọn, mắt nhìn đăm đăm khiến tôi choáng váng, ngần ngừ ấp
úng. Nàng bồi thêm:
-Chỉ
đi qua có một cái sân đá banh, vài ba con đường nữa là đến nhà rồi, Hào chở
không nổi sao?
Lúc
ấy tôi nhớ chuyện cũ trên dóc bờ sông, rất là ngại ngùng nhưng đôi mắt long
lanh ấy còn hơn là một mệnh lệnh. Tôi líu ríu đi tìm cái xe đạp...
Trời
ơi! lỡ có ai quen mà trông thấy thì chắc chết, nên tôi đạp rất mau, có một Túy
ngồi sau, chứ có hai cô Túy thì tôi vẫn chạy như bay.
-Chậm
chậm lại đi, bộ sợ người ta thấy chở Túy sao?
Túy
ngồi sau cằn nhằn khiến tôi phải bấm bụng mà đạp chậm lại.
Đoạn
đường này trồng toàn cây muồng hoa vàng chen lẫn ít cây keo. Nếu đi bộ tôi hay
gỡ những cục keo dính dưới gốc cây, chính là những cục keo mà khi học tiểu học,
mấy đứa học trò thường hay liếm rồi chà lên giấy màu để dán khi làm thủ công.
Những trái keo thì lòng khòng như trái me, xanh xanh hồng hồng mà nhẹ hửng; nếu
thấp một chút là bị tôi tóm liền, ngon ơi là ngon. Hôm nay tôi cũng đi trên đường
này, nhưng không được thong thả: một cô bạn nhiều uy quyền ngồi sau lưng mà
trong tôi chen lấn một cảm giác lạ lùng khó tả. Đi ngang qua trường tiểu học
tôi nghe tiếng Túy nói nho nhỏ:
-Hảo
còn nhớ thầy Trần Xuân Hà không?
-Nhớ
lắm chứ! Cha tôi bảo bây giờ thầy cô ở trong Sàigòn, nhà gần trường Đại học Sư
phạm thầy vẫn dạy học.
-Hào
có nhớ cô Bạch Liên không?
-Nhớ
chứ sao không! cô Bạch Liên hát hay, có bàn tay để múa đẹp như tay Phật.
Thế
rồi Túy không nói gì nữa, có lẽ Túy để yên cho tôi thả hồn về dĩ vãng của những
ngày nhỏ chúng tôi đi học bên nhau: cả tỉnh chỉ có một trường tiểu học công lập.
Khi chúng tôi học hết lớp nhất thì mới mở trường trung học. Năm nào cũng từng ấy
khuôn mặt, đứa nào cũng được lên lớp. Bẹt hạng là thằng Quý heo, vừa học vừa cầy
phụ cho cha nó mà vẫn cứ lên lớp như thường. Đứa nào ngồi yên chỗ ấy. Mấy năm
liền Túy ngồi bên trái tôi, ngay bàn đầu con gái, chỉ cách có một lối đi.
Thầy
Xuân Hà thường cho làm toán chạy: mười đứa đầu tiên làm xong, chạy lẹ lên nạp
bài thì có đìểm tốt. Cũng có khi thầy kêu một đứa lên đứng sau cái bảng quay, rồi
cho cả lớp cùng làm một bài toán với đứa đứng sau bảng. Khi thầy hỏi “xong
chưa”, nếu tất cả đã làm xong thì đứa sau bảng sẽ quay bài viết bằng phấn của
nó cho tất cả mọi người cùng xem.
Tới phiên tôi lên bảng, khi tôi quay cái bảng
ra cho mọi người cùng xem, không biết tôi tính toán ra làm sao mà cả lớp cười
lên dữ dội - cười lâu và dữ dội đến nỗi tôi về chỗ ngồi, gục đầu xuống bàn bật
khóc. Chỉ có mình Túy là không cười. Tuý quay lưng đứng phắt dậy, giận dữ cau
có:
-Cười
gì mà cười người ta dữ vậy?!
Lớp
tôi vốn thương nhau, mọi người chợt hiểu đã làm tổn thương người bạn nhỏ nên im
bặt, im luôn. Cũng từ hôm đó thầy không cho làm toán trên bảng quay nữa.
Thầy
Xuân Hà còn có cây đàn guitar và là người đầu tiên dạy chúng tôi học hát đàng
hoàng sau cái bài không cần phải dạy mà đứa nào cũng hát được là bài quốc ca.
Cuối
năm lớp nhất, sắp tới phát thưởng. Túy và mấy đứa con gái được cô Bạch Liên kéo
qua lớp khác tập múa, lập tức mấy đứa con trai chúng tôi rủ nhau đi coi cọp.
Trong tiếng hát ngọt ngào của cô Bạch Liên, tiếng đàn guitar êm êm giữ nhịp của
thầy Xuân Hà, Túy đứng giữa đám, nổi bật trong bộ đồ Lèo với váy đen bó chặt,
áo chàm, khăn hồng, uyển chuyển trong điệu múa dùng rất nhiều cử động của hai
bàn tay.. Tôi năm đó còn bé lắm, ngơ ngẩn lờ khờ đến bên Túy hỏi:
-Bộ
con gái Lèo đẹp dữ vậy sao?
Trong
bộ đồ Lèo chưa kịp thay, Túy không trả lời, hai hàm răng nghiến lại, vai co
lên, cổ rụt vào, nó quay đi nửa vòng cười mãi - vui lắm vì có một chú bé thật
thà khen đẹp.
Bây
giờ chúng tôi đang ngồi chung trên một cái xe đạp đi qua chốn cũ; ngoại trừ
hàng cây có cao lớn hơn, mọi thứ khác vẫn y nguyên như xưa: cái hành lang thật
dài, cái trống bịt da hai đầu treo ở ngay chỗ lớp tôi học vẫn còn đó. Mỗi ngày
ông cai trường cao lều khều đánh cái trống này mấy lần. Trước khi đánh trống,
sơ chúng bị giật mình, bao giờ ông cũng gõ nhẹ vài tiếng vào tang trống. Những
đứa bé ham chơi như tôi rất mê nghe hồi trống tan trường ấy. Tiếng đầu thật là
mạnh, sau đó nhỏ dần và nhanh hơn, cứ thế ông lập lại hai đợt nữa. Chắc ông cai
trường cũng thích đánh cái hồi trống cuối cùng đó nhất, nên ông đập mạnh lắm, mạnh
đến nỗi bây giờ nó vẫn còn âm vang rung động trái tim tôi. Đứng dưới cái trống
đó, tôi đã hỏi người đẹp đang ngồi sau lưng câu hỏi khù khờ ngớ ngẩn.
Giờ
thì tôi hát nho nhỏ cho Túy nghe bài hát năm xưa tôi đã thuộc lòng trong lúc
hai tay đeo vào khung cửa sổ ngóc đầu lên nhìn bọn con gái tập múa:
Nhớ
nước non xưa Lào
cùng
tiếng ca bên rừng,
nàng
khoe xiêm áo,
múa
hát ca vang lừng.
Nhớ
suối reo bên rừng,
cất
tiếng ca đồi thông,
nhớ
những cô đợi chồng ,
ngồi
dệt xà rông...
Chắc
là Túy cảm động lắm, nên một cái gì nằng nặng ấm áp đè lên sau vai tôi …Vừa mắc
cở lại vừa sung sướng, tôi mong cho đường dài hơn lại vừa sợ người quen trông
thấy. May làm sao, vì tôi đi học quá sớm nên đoạn đường đi về nhà Túy không gặp
một đứa bạn nào.
Qua
hàng bông sứ, là vào tới sân. Một con chó màu trắng ra vẫy đuôi không sủa tiếng
nào. Không thấy cha Túy ngồi trên cái bàn đen viết chữ, có lẽ ông đã đi nghỉ
trưa, thiệt là đỡ khổ cho tôi. Năm trước có lần đến nhà Túy cùng với một lũ bạn,
trai có, gái có, mà tôi không nhớ là dịp nào, có thể là ngày giỗ mẹ, Túy đi nấu
chè đậu xanh đãi các bạn. Lúc ngồi chơi ở hiên nhà sau, cha Túy đi qua đi lại
ngắm nghía rồi hỏi tôi chuyện học hành.
-Dạ
thưa bác con đứng hạng cũng gần chót lớp.
-Vậy
là thua con Túy sao?
-Dạ
thua.
-Mày
là con phượng chứ đâu phải con gà, sao không ráng học hành chăm chỉ hả con?
Con
Hà lẻo mép liền đỡ lời cho tôi:
-Bác
nói trò Hào là con phượng thì trỏ sẽ là con phượng; con phượng đâu cần ráng học
gi-ỏí đâu!
Ông
Tư không nói năng gì, đi lại gần con Hà, cú đầu nó một cái.
Mùa
hè năm rồi, chị Ngọc Châu của tôi về nhà kèm toán cho tôi, tôi có khá hơn chút
đỉnh, nhưng cũng còn xa Túy lắm, nên tôi không muốn gặp ổng, sợ ổng lại hỏi
chuyện học với hành! Bỗng tôi buột miệng nói:
-Sao
không hỏi tôi cái chuyện chơi?
-Hả?
cái gì? Hào nói gì?
Túy
mang ra cho tôi một ly nước trà vừa hỏi lại cái câu không nghe rõ.
-Ồ
không! Túy kiếm bài tập lẹ lên rồi tôi chở về trường đi học..
Chủ
nhật trời trong và đẹp làm sao khi gió thổi xào xạc mấy ngọn trúc bên nhà Lê thị
Hoà, không thấy Hoà với Lài ngồi ở hàng ba như mọi khi ca hát líu lo. Tôi đi
tìm mấy đứa bạn ở gần nhà. Thằng Điểm mắc phụ cha nó cưa gỗ đóng đinh, thấy tôi
nó nhăn nhó chỉ cái lưng cha nó - cái lưng to như bộ ván gõ mà lấm chấm mồ hôi
- rồi khoát tay lắc đầu. Tôi lẩm bẩm rủa:“đồ Điểm lùn, cứ đóng đinh mãi làm sao
cao lên được!”Tới nhà thằng Hải, chị Đạm nó bảo: “Em Hải đi Phật tử rồi, em lên
chùa Bác Ái tìm Hải đi”Chị nó là cô giáo ăn nói ngọt như mía lùi nhưng tôi vẫn
còn bực mình:“ra chùa thì chỉ hít khói nhang chứ mày được cái giống gì! lỡ có
nghịch phá ông thầy chùa bắt quỳ cho cháy hết cây nhang là thấy mẹ luôn.”Chỉ
còn một thằng nữa là thằng Lang; người nhà nó nói vọng ra một câu cụt lủn: “biếc
nó mô đâu! ”Có tiếng “Ôông” nó léo nhéo:
-Chàu
rày á, đứa nào tới kiếm thằng Lang, trên tay không có cuốn sách cuốn vở, tau đập
một cái chết bà tổ.
Ôông
nó không đi lại được nữa, chỉ ngồi trên giường. Ổng quên rằng cục cưng của ổng
còn làm biếng học hơn tôi một bậc. Trong lớp đứa nào cũng gọi nó là Lang sùng.
Tôi cũng đâm sùng máu, bứt một lá quỳnh của ổng- chỉ dám bứt một lá- đạp nghiến
dưới chân. Tôi vừa buồn, vừa giận tôi, ngủ gì mà ngủ quá trời quá đất để tụi nó
vuột mất tiêu.
Lang
thang một hồi, tôi cũng lại thấy tôi ra phía bờ sông, ngay chỗ bến phà. Tôi
đành ngồi đó chờ bạn tôi ra, mãi cũng chẳng thấy một đứa nào. Thằng Cho chắc là
đá banh với trường Lasan. Thằng này chạy góc trái đá được hai chân rất mạnh, là
gà nòi của trường, cực kỳ nguy hiểm. Nguyễn Thiên đầu chải tém như anh chị bến
xe đò, là thủ quân đội banh. Khi nào thắng nó sẽ ca ít câu vọng cổ. Trường La
San Kim Phước có ông frère trẻ đeo kính trắng làm dìu dắt, thường thấy ổng dẫn
lính về mặt buồn xo.Thằng Phú với thằng Nương chắc đang đạp xe đạp ở đâu đây,
Thằng Nương có cái xe đua bánh mỏng nó chỉ lo đạp là đúng rồi. Còn ba cô nàng
đó hay đi phà qua bên kia sông lắm, mà
sao hôm nay cũng biệt tăm. Con sông này lòng nhỏ, bờ rất cao phía thành phố, bờ
bên kia thấp là cánh đồng mênh mông, nước sông chảy mạnh. Có người kỹ sư giỏi mới
căng một sợi dây cáp lớn ngang giòng sông, một cái ròng rọc có thể chạy qua lại
trên sợi dây cáp đó. Người ta dùng dây nối chiếc phà với cái ròng rọc đó. Tùy
theo góc độ hứng nước, cái phà hình chữ nhật dài với bao nhiêu là người và xe cộ
cứ tà tà nghiêng nghiêng mà qua lại, chẳng cần máy móc chi hết. Có người bảo có
ngày sợi dây cáp đứt thì phà sẽ trôi băng băng về phía mặt trời Tây. Nhưng chuyện
đó chưa xảy ra, mà nếu có thì cũng còn có hai cây cầu gỗ thấp nối một cái đảo
cát với hai bờ chận lại.
Lúc
ấy tôi đã chán coi phà, nên bỏ đi xuống phía đảo cát. Mấy đứa con trai mà tôi
nhớ mặt hình như học lớp dưới đang ở trên một cái thuyền lớn. Không biết tụi nó
đã chôm từ một buôn làng nào bên bờ sông. Chúng nó vừa hò la vừa chèo chống bằng
tay không! Tôi thích quá nhảy đại xuống chơi. Được một lát thì thuyền ra xa bờ,
tôi mới nhớ là tôi chẳng hề biết bơi lội gì hết; hai ba đứa cứ đứng xông xổng,
nều bây giờ thuyền lật thì chắc chết.
Thuyền
ra giữa giòng, nước trôi băng băng mà trong vắt, tôi thấy rõ cát đá rong rêu và
bắt đầu sợ. Tôi hỏi tụi nó là bơi đi đâu vậy, nhưng thằng nào cũng nhe răng cười,
hổng biết đi mô! Rồi cái đìều tôi lo sợ đã đến: một thằng rắn mắt đã rút cục điển
nút lỗ lù ném đi từ lúc nào! nước phun lên trong thuyền và cứ thế thuyền từ từ
chìm xuống. Bấy giờ từng đứa một phóng xuống sông bơi vào bờ nhanh như con rái.
Cuối cùng lại, chỉ còn có mình tôi với cái thuyền lập lờ sắp chìm. Thế là tôi
cùng đường, cũng phóng ào vào giòng nước chảy xiết ấy.
Tôi
là đứa trẻ tỉnh thành, chưa hề biết bơi lội bao giờ nhưng tôi lanh và rất khỏe.
Hình như đó là những động tác thiên nhiên ẩn giấu trong tiềm thức: tôi đã chiến
đấu kịch liệt với giòng nước cuốn, bơi một hơi dài gần nửa con sông với sức mạnh
của một thiếu niên cường tráng. Vì không đúng cách, nên tôi đã phung phí sức lực
rất nhiều; cho đến khi bàn tay tôi đụng vào cát, tôi mới biết đã thoát chết và
đứng thẳng lên, lết chân vào đảo cát. Áo quần tôi đang mặc là áo quần đi học
hàng ngày đã ướt sũng và đôi dép đã tuột
khỏi chân. Tôi nhìn ra sông, không thấy con thuyền đâu nữa và những thằng nhóc
kia đã tụ họp chỗ cũ, bờ bên kia. Hôm nay chúng nó đã chơi một trò chơi kinh khủng.
Tôi
bước chân trần trên đảo cát trắng ấy. Gần bờ nước có những bụi cây, nhưng lên tới
giữa đảo thì toàn là cát trắng tinh - cát ở đâu mà nhiều và đẹp đến thế kia?
Tôi bắt đầu cởi hết quần áo ra phơi trên cát, sợ gì chớ? có ai ở đây đâu. Lại một
cảm giác lạ nữa khi tôi vốc cát lên người, khi tôi lắc mình chôn tôi trong cát
trắng tinh này. Tôi nằm ngửa nhìn trời, chung quanh tôi sóng vỗ quay cuồng, tôi
nghe được cả tiếng bọt nước vỡ khi đập vào bờ cát. Ánh chiều nghiêng nghiêng, hất
lên cây cầu gỗ cong cong một màu kỳ ảo. Lúc này thật mệt mỏi nhưng dễ chịu quá,
tôi chìm dần vào không gian êm ả.
Khi
tôi tỉnh dậy, hoàng hôn đã bảng lảng bên sông. Phía Tây nơi con sông chảy về đó
đỏ rực như một giòng lửa lay động; cây cầu trông càng đẹp lạ lùng hơn trong màu
lửa đỏ trên một nền xanh đậm, thấp thoáng bên sông đã có ánh đèn. Một người đàn
ông Thượng mình mẩy trần trụi với độc cái khố đi lảo đảo lắc lư trên cầu, khi
nghiêng bên này khi ngả bên kia, có lúc tưởng anh ta rớt xuống sông rồi, nhưng
anh ta vẫn không sao cả.
Tôi
mặc quần áo vào rồi leo lên cây cầu gỗ đi về nhà. Không còn đôi dép, nên cây cầu
gỗ lâu năm thật là nguy hiểm với nhiều dằm gỗ và đinh cũ. Khi đi tới tôi, anh
Thượng đứng lại chìa tay ra, đôi mắt đỏ ngầu vô hồn. Tôi không bắt tay anh ta
mà bắt được cái mùi rượu cần nồng nặc thả ra từ cái miệng đã cà hết răng cửa. Đi
hết cây cầu đã khó khăn, bây giờ lại tới con đường đá dốc. Ngay chỗ này đây, tuần
trước con Hà đã dọa tôi : ma da bẻ giò. Đỡ quá hôm nay không có con ma nào hết.
Trời
đã tối nhá nhem, chỉ riêng con đường buôn bán mới có đèn sáng, tôi lò mò khập
khễnh đi trong bóng đêm. Những cây phuợng êm đềm lả lướt lúc ban ngày vuơn những
tay ra như dọa nạt tôi, nhưng tôi có sợ gì tụi nó đâu. Những cây bã đậu như những
người khổng lồ cúi xuống hỏi : lại mày nữa! sao chân què rồi? Mãi rồi tôi cũng
lết được tới nhà Túy rồi ngồi bệt trên cỏ bên lề đường mà xoa bóp bàn chân đau
đớn.
Túy
đang làm bài, học bài gì đó bên ánh sáng của một cây đèn dầu lớn. Da mặt trắng
hồng lại càng rực rỡ hơn. Tôi nhìn thấy cuốn bài tập luận văn màu xanh của tôi
để trên bàn, tôi không hiểu sao hôm qua Túy cứ đòi mượn cho được. Bỗng có tiếng
chó sủa, chắc là tìếng con chó trắng nhỏ; tôi thấy Túy bước ra cửa ngó quanh, gọi
con chó vào và tiếp tục làm bài, rồi có lúc cầm cái gương lên soi, tôi thấy hai
cô Túy nhìn nhau. Lại có khi Túy lúc lắc cái gương, quay gương ra cửa nơi phiá
tôi đang ngồi, hai con mắt mở lớn nhìn thẳng vào tôi. Bờ cỏ chỗ tôi đang ngồi
khá cao nhưng tối lắm, Túy chẳng nhìn thấy gì đâu, nên tôi cứ đăm đăm nhìn lại.
Đó là lần đầu tiên tôi dám nhìn kỹ đôi mắt nàng như thế. Nhưng tôi bỗng giật
mình vì thấy Túy cười với tôi - một nụ cười rạng rỡ như muốn nói:“Túy biết Hảo
đang ngồi ngoài đường đó mà!”, nhưng nụ cười chợt tắt, Túy đặt gương xuống viết
bài tiếp. Tôi bối rối nửa muốn lên tiếng nửa lại ngồi yên. Rồi tôi nấn ná ngồi
thêm để nghe tiếng côn trùng rên rỉ, lâu lâu có tiếng trẻ khóc và nghe tiếng
tim mình đập thịch thịch.
Hôm nay giờ thầy Bùi Luận mà không thấy
ba cô Kiều đi học trễ. Thầy Bùi dạy Việt văn, nói giọng Quảng, tóc muối tiêu, hớt
kiểu bàn chải, trong khi những đứa con trai chúng tôi đều để tóc dài. Thầy nói
nhà thầy ở đường Hoàng tử Cảnh, Nha Trang, phải lưu lạc đến chỗ khỉ ho cò gáy
này gõ đầu trẻ. Tôi biết thầy là anh của một ông thi sĩ khùng khùng mà làm thơ
hay lắm. Thầy có khuôn mặt với hai con mắt giống y nhà thi sĩ đó – hai con mắt
sâu, tròn to hó. Vậy mà tiểu sử của ông thi sĩ mát dây không có nhắc tới thầy?!
Thầy cũng dễ tính lắm, nhưng khi trả bài luận văn là lúc thầy bươi móc những lỗi
lầm ác ôn của lũ chúng tôi ra. Nhiều đứa con trai không biết cất mặt vô cái hộc
bàn nào cho đỡ mắc cở; nhiều đứa con gái tốc vạt áo dài lên che đầu kín mít.
Bây
giờ thầy trả bài luận: tả ngày Tết ở trong nhà . Thầy nói đứa nào cũng đã ăn tết
hơn một chục lần rồi, không có lý do gì mà không biết làm. Thầy có vẻ khoái đề
tài này lắm, nên đứa nào làm không đủ bốn trang giấy vở thì tự động đi cấm túc
ngày chủ nhật làm tiếp, khỏi khiếu nại lôi thôi gì hết.
Chúng
tôi thường làm luận đề luân lý hay văn chương. Luận đề văn chương nhàm chán lắm:
quanh đi quẩn lại mấy đứa con nít chúng tôi phải bình thơ của mấy ông già khú đế,
có ông đã mất từ thế kỷ trước mà từ tư tưởng đến đời sống khác xa chúng tôi, thế
mà cứ phải khen lấy khen để. Luận đề luân lý lại càng tai hại hơn cho tôi. Có
khi là câu nói của một ông ba Tầu tên Vương Dương Minh: “người không có chí như
thuyền không lái, như ngựa không cương, trôi giạt lông bông không ra thế nào cả.”Ngẫm
đi ngẫm lại, tôi đúng là cái loại người bị các ông ấy nói móc họng, hỏi làm sao
tôi nuốt cho trôi bài luận. Giống như người làm quốc sự, bị phe bên kia tóm được,
nhốt trong tù bắt làm kiểm điểm những lỗi lầm, có khác gì chửi cha mình. Thế
cho nên những bài luận luân lý của tôi đã không được điểm cao, còn bị thầy phê
là gàn bướng.
Nay
năm sắp hết, Tết đã gần kề, thầy Bùi nổi hứng cho làm bài luận tả ngày Tết ở
trong nhà nên tôi cũng thấy dễ thở, tôi viết ào ào. Trong hai giờ trả bài tập,
không có đứa nào được thầy khen, chỉ toàn lãnh búa. Tôi đợi mãi không thấy quyển
vở màu xanh của tôi, hay là thầy đánh mất rồi. Cuối cùng thầy nói:
-Chỉ
có hai bài đường được là bài của cô nàng say với bài của thằng Bắc kỳ di cư. Nhưng
hai bài lại giống y nhau. Sao lạ vậy hè...Rồi thầy la lớn:
-Đứa
nào cọp dê đứa nào, khai ra cho mau.
-Con
không có (Túy trả lời rất nhanh)
-Con
cũng không có (tôi sượng sùng lập lại)
Thầy
tròn mắt dòm qua dòm lại:
-Hai
đứa bây không có thì bộ thầy đui sao hả? Để thầy đọc từng bài cho cả lớp nghe
nè!
Thế
rồi thầy a hèm lên một tiếng thật to rồi bắt đầu đọc bản án kinh khủng của hai
đứa tôi:
Tôi
là thằng Bắc kỳ di cư nhưng tôi yêu quê hương miền Nam, nghĩa là từ Quảng Trị
trở xuống, nên tôi thích dùng tiếng miền Nam. Đề tài thầy cho là tả cảnh sum họp
gia đình trong ngày Tết, nhưng ngày Tết
phải về quê về nhà thì mới có ý nghĩa, làm sao tôi tả được Tết trong
Nam, trong khi nhà ở thường là nhà thuê chật hẹp hay ở ké các cơ quan chính phủ.
Thế nên tôi đã tả ngày Tết ở căn nhà Hà Nội, nơi tôi sống tuổi ấu thơ, nơi có đủ
anh chị em, chú bác cô dì cậu mợ.
Bài
luận của tôi bắt đầu với những tràng pháo nổ. Cửa mở ra, khói pháo xông vào
cùng một lúc với mấy người bạn của cha tôi. Trên tay các bác ấy đều có phong
bao đỏ thắm, tiếng cười nói xôn xao cùng những lời chúc Tết đậm đà tình nghĩa.
Tôi bé mà khôn vặt, cứ luẩn quẩn ở phòng khách, nấp dưới một cành đào lớn, bên
mấy giò thuỷ tiên thơm ngát mà từ từ thu những tình nghĩa đậm đà ấy đầy một
túi. Trên bàn thờ tổ tiên khói hương nghi ngút với bộ đèn nến sáng choang, bao
nhiêu là bưởi, cam, quít,với quả na quả hồng. Con gà vàng óng mỏ ngậm bông hồng
đặt bên cạnh những khoanh giò lụa trắng tinh, một đôi bánh chưng xanh vuông vức
nằm kề lọ hoa huệ bằng sứ men lam, cùng với bánh mứt tưng bừng. Nhà trong chí
chóe với bài bạc: nào xóc đĩa cho lũ nhóc tì, tam cúc cho mấy choai choai, còn
già lão hơn thì sà vào mạt chược, tổ tôm. Cha tôi người tộc trưởng trịnh trọng
trong cái áo the – mà mỗi năm ông chỉ mặc một lần – đang khấn vái trước bàn thờ.
Mẹ tôi , chắc cũng giống bà mẹ ông Lưu Trọng Lư “nét cười đen nhánh sau tay
áo”tuy bà không nhuộm răng đen, nhưng đôi mắt tinh anh môi trầu cắn chỉ đang tất
tả thu dọn chào mời; khi xếp mâm ngũ quả, khi châm nén hương vòng. Hôm ấy bà thật
vui, thật đẹp trong áo dài vàng mỡ gà, và cái khăn nhung đen tóc vấn.
Thỉnh
thoảng có người đến gõ cửa xin đọc lời chúc Tết. Họ là những người nghèo trong
y phục, nhưng tươi cười lanh lợi và vô cùng giàu có trong lời nói:
Các cô các cậu như tiên
Cậu cậu mợ mợ
bình yên một nhà
Mẹ
tôi cũng ân cần chúc Tết họ và vui vẻ trao một cái phong bao.
Tả
ngày Tết đang đầm ấm vui tươi như thế, tôi lại phang vào đó cái kết luận thật
là buồn; có lẽ vì thế mà bài luận mới chỉ được thầy coi là đường được: Cậu tôi
làm quận trưởng Võ Giàng, cậu còn trẻ măng, làm việc cho dân quên ăn quên ngủ,
không biết ăn hối lộ nên được nhiều người quý mến. Gần Tết năm ngoái cậu đạp xe
lên tỉnh, không cần hộ tống. Nửa đường cậu bị hai thằng gánh cỏ chận lại, chúng
rút súng dấu trong gánh bắn chết cậu, lại còn chặt đứt đầu, trên ngực cắm một
lưỡi dao với bản án trừng trị Việt gian phản động.
Tôi
đứng trong góc khuất nhớ thương người cậu ruột đẹp trai và lương thiện, nhìn mẹ
tôi vui tươi trong gia đình đầm ấm mà không dám nhắc: mẹ ơi, Tết này, em trai của
mẹ vẫn không về...
Giờ
thì cả lớp lắng nghe bài của Túy. Ngoại trừ nhập đề với kết luận là có khác, thầy
đọc tới đâu là tụi bạn cũng la làng. Bao nhiêu là cái miệng ngoác ra cười cười
nói nói khiến thầy phải đập bàn mới tạm yên. Túy úp mặt xuống cạnh bàn, hai tay
vòng lên che đầu, đôi vai rung rung. Tôi nghĩ là Túy lại khóc như tôi bốn năm
trước. Nổi điên lên tôi định quay lại sừng sộ bằng cái câu của Túy “cười gì mà
cười người ta dữ vậy?”Nhưng tôi chợt nhận ra: môi Túy hé mở, cái răng nanh
trăng trắng rung lên, đúng là Túy đang cười. Thế là tôi vỡ lẽ ra ngay. Túy ơi,
sao ác quá vậy; bài luận đó là bài của thằng Bắc kỳ, đọc lên ai mà chẳng biết.
Hai cô bạn thân là Kim Lan với Hà còn lăn đùng ra mà cười, sao Túy cứ chép y
chang?
Thầy
Bùi hết ngó tôi lại ngó Túy, hai con mắt tròn láu lỉnh, miệng cười cười phán một
câu xanh rờn:
-Bây
giờ thì mượn đỡ bài vở, mai mốt mượn tới tiền bạc rồi nhà cửa xài chung cũng
không biết chừng!
Có
nhiều đứa cười ré lên, hai vai Túy càng rung động mạnh, riêng tôi ngu quá là
ngu, mãi mới hiểu thầy nói cái gì!
Những
ngày sau đó bọn con trai vẫn êm, vẫn bình thường đối xử với tôi, nhưng bọn con
gái thì không; tất cả lũ chúng nó gọi ngay tôi là ông Túy. Đứa xấc xược gọi giật
giọng:
-Ê,
ông Túy..
Đứa
làm bộ lễ phép:
-Thưa
ông Túy đi học..
Đứa
láu cá nhất hạng là con Hà, chắp hai tay, cúi đầu nhái tiếng Bắc kỳ của tôi, giọng
quê đặc:
-Con
nạy ông Túy ạ!
Đáng
lẽ phải gọi Túy là bà Hào mới đúng, sao chúng nó lại cứ nhè tôi mà chọc ghẹo? tụi
con gái chơi phe đảng quá! ngày nào tôi cũng phải đi học, biết trốn chỗ nào!.
Trong khi đó cô nàng say cứ tỉnh bơ; một bàn tay che nửa mặt để thầy không thấy,
lâu lâu đưa sang một con mắt lén cười trên cái đau khổ này!
Qua
Tết chị Ngọc Châu gửi thư về cho tôi: em phải cố học lên nhé. Cậu là ông đứng đầu
tỉnh về việc học đấy. Nếu em thi trượt lần này thì cậu còn mặt mũi nào mà khiển
trách mấy ông giáo lười. Chị nói tôi đâm lo, thấy đã trễ quá rồi, thế là tôi
càng rét run lên.
Cái
chơi thì tôi thật là tài, chẳng cần bái sư, mà không phải là có nhiều người
đánh đàn ca hát vẽ vời hơn tôi đâu. Đụng tới học thì tôi thấy đầu nó đặc như cục
chì. Ngày Tết, lửa trại không có tôi đứng ra tổ chức thì hỏng bét, nhưng ngày
thường phải kiên nhẫn lắm tôi mới tàm tạm quơ quào được ít bài toán hình học đại
số.
Hết
kỳ đệ nhị lục cá nguyệt là chúng tôi sửa soạn đi thi. Trường thi ở tận một tỉnh
khác cách xa tới hai trăm cây số. Đứa nào con nhà khá giả thì đi máy bay hàng
không VN. Đứa nào nghèo thì đi xe đò. dù sao chúng tôi cũng rủ nhau đi từng
nhóm. Chúng tôi đến trước vài ngày, gặp nhau trên đường phố tỉnh ấy thì vui vẻ
lắm, gọi nhau ơi ới cười nói vang trời..
Năm
đó lớp tôi có tám đứa thi đậu, không có tôi, mặc dù rất sợ cha tôi buồn, tôi đã
hết sức cố gắng để được trung bình mọi môn. Bảy đứa con trai và một đứa con gái
thi đậu, Túy đậu bình thứ. Có nhà thi sĩ họ Trần thi trượt nhiều lần đã thở ra
một câu ai oán: Đệ nhất buồn là cái hỏng thi. Nỗi buồn của tôi lại còn cao hơn
nỗi buồn của nhà thi sĩ ấy tới mấy lần : tôi làm chị Ngọc Châu tôi buồn, cha
tôi mất mặt và tôi biết còn có một người con gái buồn thê thảm hơn nữa! Thế là
tôi đóng cửa ở lì trong nhà với nỗi buồn đến xanh xao mặt mày.
Một
hôm tôi có việc bắt buộc phải đạp xe trên một con đường, tôi thấy nhiều Kiều nữ
lớp tôi đang đi ở một con đường cắt góc vuông với con đường tôi đang chạy. Họ gọi
tôi ơi ới, tiếng gọi của Túy lớn hơn, tôi nghe rõ giọng thiết tha, nhưng tôi tủi
nhục quá cứ cắm đầu chạy miết. Tôi biết chắc lúc đó Hà sẽ không chọc ghẹo tôi nữa;
nó sẽ giữ xe đạp của tôi lại hỏi chuyện tương lai: “bây giờ trường đã hết lớp học rồi, Hào sẽ đi
đâu học, sẽ làm gì?” không chừng nó sẽ mời tất cả ra quán ăn nhà nó để đền cái
tội bao nhiêu năm nay nó chọc ghẹo tôi. Còn Ngọc Bích với Hồ Sang nữa chứ, lúc
nào cũng xinh đẹp, chững chạc đàng hoàng, không chừng sẽ khuyên tôi phải để ý đến
bạn thân của chúng một chút: có đi đâu cũng phải viết thư về cho Túy, không thì
Túy sẽ héo khô như cành hoa dưới nắng. Thế mà tôi cứ cắm đầu chạy, thế mà tôi cứ
lầm lũi đi, thế mà tôi cứ khăng khăng giã từ! Thấy vậy , buồn rầu cha tôi cũng
xin đổi đi tỉnh khác.
Tôi
đi như gã mộng du với hình ảnh ngôi trường chập chờn mờ ảo, hình bóng cô Túy
yêu kiều ẩn hiện trên giòng sông thơ mộng chảy ngược về hướng mặt trời chiều.
o-O-o
Anh
tỉnh dậy, tỉnh dậy sau khi bất tỉnh khá lâu từ chiều hôm qua. Nắng đã lên cao
soi rõ chiến hào toàn những xác lính, đúng hơn là toàn những bạn anh; có kẻ mới
chết có kẻ bọc trong poncho từ nhiều ngày trước mà trực thăng không tản thương
được, tuyệt nhiên không có một xác địch. Như vậy là chúng đã thắng trận này nên
kéo xác đi hết. Rõ ràng là anh đã hạ gục một đứa bằng khẩu Colt-45 khi nó đụng
mặt anh trong giao thông hào này; một giây ngỡ ngàng nó nhìn anh bối rối, và
anh đã nhanh tay bóp cò. Lúc đó anh thoáng thấy cái sẹo ở thái dương bên phải của
nó mà bây giờ anh muốn nhìn lại: có phải là thằng Huân bạn cùng lớp hồi nhỏ
không? Sau đó thì anh không biết gì nữa vì một cú đập như trời giáng xuống đầu,
may mà anh có nón sắt hai lớp bảo vệ không thì … Thật giống như thiếu uý Thọ đã
kể là ba anh ấy bị Pháp xử bắn cùng mười hai đồng chí lúc sáng sớm, họ bỏ xuống
hố chôn chung rồi lấp đất sơ sài, nửa đêm ổng lết được về nhà và sống mãi tới
bây giờ! Anh rút chân ra khỏi xác đẫm máu của Lê hoàng Tùng, cậu lính mới đẹp
trai mê mầu áo hoa dù, rồi ngồi thẳng lưng dựa vào tường đất của một căn cứ
phòng thủ lính Mỹ bỏ lại, mà bọn anh đã khổ công đào xới tu bổ thật đẹp khi
nghe lệnh tử thủ.
Anh sờ nắn thân thể để tìm những vết
thương, tuy có nhiều mà không nặng lắm. Một tuần lễ trong hỏa ngục với đạn bom
và đói khát sao anh đứng dậy được , khó khăn lê đi trong chiến hào nồng nặc tử
khí và mùi thuốc đạn kể cũng lạ… Phải ra khỏi đây ngay - anh tự nhủ, nhưng trước
khi đi anh phải nhìn mặt từng chiến hữu và cố nhớ tên từng người. Hạ sĩ Beo người
Bana tay cận vệ dũng mãnh của anh nằm xấp, tay vươn ra chới với như đang bơi,
tay kia còn nắm cán xẻng. Anh từng thấy Beo đánh cận chiến bằng xẻng, một dụng
cụ nhẹ nhưng vào tay Beo thì nhanh như chớp, mạnh như bão uy lực khôn lường.
Anh đâu có chọn nó làm cận vê đâu, chính nó gạ gẫm anh để được đào hố lót ổ cho
anh, lưng tải trăm thứ đồ nấu ăn, mùng ngủ, võng, đèn pin, bật lửa zippo, bao thuốc
quân tiếp vụ và đồ cá nhân. Beo còn tuyên bố: muốn chơi ông thầy nó thì hãy bước
qua xác nó. Anh đứng chết lặng một lúc mắt khô nứt mà vẫn nhòa lệ:”Beo ơi anh
chẳng còn được về làng với em tìm đứa em gái ngây thơ.” Binh nhất Lê Nuôi xạ thủ
đại liên chết đứng thế nghiêng nghiêng tay vẫn còn bấu chặt khẩu M-60, một kiểu
chết rất đẹp của người lính. Trong một góc khuất là cái poncho bó thân chuẩn uý
San đề lô pháo binh Dù chết từ mấy ngày đầu; đôi giầy saut khá mới nằm ngoài và
đầu kia thò ra một ít tóc. Tiểu đội trưởng Trần Hen lại có lối chết thoải mái
như hồi còn sống, nghĩa là lúc sống cười đùa tiếu lâm, bây giờ chết ngồi dựa
lưng vào tường cũng thoải mái như lúc anh ta cười hềnh hệch kể chuyện chỉ huy
trưởng đi tắm suối:
Hồi
sang tao thấy ổng đầu đội nón sắt, mình áo giáp, chân đi đất, mặc quần xà lỏn
tay cầm ca
lom
khom xuống dưới suối coi hổng có oai phong gì nữa. Xưa thấy ổng cưỡi xe thiết
giáp đuổi tụi nó chạy te như đuổi đàn vịt cỏ, đẹp như Quan Công đánh giặc! Còn
bây giờ sao …
Thằng Bình cướp lời:
-
Mày đừng có trù ẻo đi, ổng chết thì tao với mày cũng lên bàn thờ. Mấy thằng
đệ tử thằng nào cũng lo đào thấy mẹ, đâu thằng nào được hưởn mà xách cho ổng
can nước.
-
Ý, tao mà chết, thả hòm tao xuống huyệt là con vợ tao nó nhào xuống theo
liền à.
-
Xí! Tao thấy con nào nhào xuống đòi chết theo thì chừng tháng sau nó
theo thằng khác rồi, Con nào chỉ khóc dữ mà không nhào xuống thì được sáu tháng
… con nào không khóc gì hết thì còn được lâu lâu….một thằng khác có ý kiến.
Chuẩn úy Biên, cựu binh rau muống
đi kiểm tra thấy khói xanh bốc lên mù mịt.
ghé mắt xuống quát:
- Đéo mẹ, chúng mày không lo đào chỉ túm
lại hút thuốc rồi tán nhảm, sáng mai chúng nó pháo là ăn đất hết.
- Nghỉ có chút xíu thôi mà chuẩn úy ơi,
đất đồi cứng lắm, lâu lâu cuốc trúng cái đầu ông sư, nhá lửa muốn gẫy cuốc
luôn. Chuẩn úy dịu giọng:
- Một ba tối nay đi cài lựu đạn với tao
rồi về đào nữa, hai bốn đi tiền đồn với trung sĩ Ngang. Thằng Lung đẹt, chuẩn bị
một thùng lựu đạn, dây cước với kim băng.
- Kim băng là kim gì chuẩn úy?
- Mẹ mày còn vờ nữa, là kim Tây đó, rõ
chưa?
- Dạ, rõ năm trên năm chuẩn úy.
Nhẩm đếm những xác đồng đội anh phỏng
đoán có năm đứa chưa sao còn lạc lõng nơi đâu đó. Nẫy giờ tìm không thấy chuẩn
úy Biên. Lão già hay thật, mà lão rất thương mấy thằng nhỏ; chỗ nào khó khăn
nguy hiểm thì lão nhẩy vào, không nhiệm vụ nào được giao mà lão không hoàn
thành, chuẩn úy già gân! đúng là đạn tránh lão từ đã lâu. Còn thằng Phan Xiếu
đeo máy truyền tin cũng không thấy, anh
chắc là nó đã nằm ngoài danh sách ngưòi đi không về, thôi cũng mừng cho má nó,
một bà chưa tới tuổi năm mươi mà trong hình nhăn rúm như trái táo khô. Đứng thẳng
người giơ tay chào các chiến hữu lần chót rồi anh tìm chỗ leo lên mặt đất. Trên
vai anh đã có cái ba lô của Beo còn tí cơm xấy, một hộp ba lát và mấy bi đông
đã khô nước. Anh biết trong ba lô này còn nhiều thứ vặt vãnh mà Beo đã bỏ vào.
Anh quay trở lại lật nó nằm ngửa nhìn trời xanh, lấy tay vuốt cái mặt dính đầy
đất nhưng rất đẹp của nó. Một khuôn mặt lai nửa Tây nửa Thượng. Anh tháo sợi
dây bạc ở cổ nó. Sợi dây bạc nối với cái hộp nhỏ trái tim mà có lần nó đã khoe với anh hình đứa em gái
rất xinh ở trong đó. Nó bảo em Dung biết nói tiếng Việt và tiếng Pháp, khi nào
mình tới làng Kroong nó sẽ nói chủ làng làm đám cưới cho ông thầy với em Dung.
Anh tròng lại sợi dây vào cổ mình, mơ
màng nhìn về phiá Nam. Tiếng Beo tuần trước còn văng vẳng bên tai: Đó ông thầy
thấy không? cứ xuôi Nam con sông Poko ở dưới chân đồi này chừng vài chục cây số,
khi nào thấy nước nhiều và thấy một con sông khác đâm thẳng vô bên hông nó, đó
là sông Dakbla, làng Kroong ở chỗ đó. Anh hỏi:
- Như vậy cứ đi ngược sông Dakbla, khi
nào thấy cây cầu gỗ cong cong là đến Kontum? Chắc Beo hơi phật lòng nó không
vui trả lời:
- Ông thầy phải ghé làng Kroong tìm em
Dung trước chứ! … Anh nói lảng:
- Sẽ tới mà. Thế Poko chảy tiếp tới
đâu?
- Tới thác Yaly.
Không hiểu sao cái thằng Beo này hôm nọ lại
nói chuyện gở đó với anh…Sao lại muốn gả em gái nó cho anh! Hay nó sợ em nó sẽ
bơ vơ?... Đi qua hố nước tiểu, cạnh đó để thùng lựu đạn, thấy còn bốn quả anh
lượm hết bỏ ba lô, là phòng xa thôi, chưa biết dùng làm gì, hay là nếu cùng đường
thì cho vài thằng nữa chết chung! Đêm tối nếu ai mắc tiểu thì lại hố này, khi về
nhớ tháo chốt môt quả lựu đạn ném xuống, may nhờ rủi chịu ngăn ngừa mấy đứa bò
lên kiếm chác hay là kéo xác đồng đội. Kéo về chôn thôi chứ chữa chạy gì, anh
biết nhiều đứa còn nằm đó rên la. Quân đội các nước trên thế giới số thương
binh nhiều gấp bốn năm lần tử sĩ, bọn họ không biết có được một không! Ai đã từng
chỉ huy trung đội hay đại đội mới thấy khó khăn cực nhọc của việc tản thương, nếu
không có trực thăng. Một chú bị thương mất
bốn người lo, tiếp tục hành quân thật khó khăn. Cho nên Bắc quân thường xử gọn
nếu bị truy đuổi để giữ bí mật.
Đúng là chúng đã tràn ngập phòng tuyến
tối qua, rất sợ B-52, thêm phần tối quá nên đã vội vã rút đi không mang theo
chiến lợi phẩm, chỉ kéo sạch những xác chết đồng bọn.
- Một lần nửa giơ tay chào người anh cả
tiểu đoàn mà anh biết đã tử trận tử mấy ngày rồi. Chào vĩnh biệt các chiến hữu
nằm lại ở phòng tuyến giữa và phòng tuyến phía Bắc. Đêm nay các anh hùng ngủ
yên , mãi mãi không có cả da ngựa bọc thây. Nhiều người, trong đó có Beo ngửa mặt
nghe gió u u heo hút thổi trong chiến hào, có trăng rõi soi vằng vặc thiên
thu. Anh khập khễnh hai chân, lầm lũi xuống
suối lấy nước, không quên mang theo khẩu M16.
Nắng đã lên cao, trời trong xanh, mây
bay từng cụm tròn trịa nhưng gió ở đâu lại thổi thốc vào mũi anh một mùi ghê rợn
làm anh muốn ói, mà ói không ra vì trong
người anh lúc này chẳng có gì ngoài máu đang sắp đông khô. Đó là mùi thịt của
vài trăm con người bị nướng cháy bằng lửa của bom xăng, hoà lẫn với mùi thuốc đạn.
Ngồi bên suối dưới bóng mát cây rừng,
uống từng ngụm nước nhỏ đúng theo cách cứu người khát nước khi đi qua sa mạc,
anh bắt đầu khỏe lại dù nước rất tanh.
Chung quanh đây, chỗ nào chẳng là chiến địa khi ngày đầu tiểu đoàn tung quân lục
soát.
Để đánh bại một đơn vị phòng thủ bao giờ
Bắc quân cũng pháo cho tan nát trước rồi tấn công biển người sau, đúng bài bản
tiền pháo hậu xung mà Tầu cộng đã dậy. Thế nên ngay ngày thứ hai của trận chiến
đỉch đã bắn cả ngàn quả đạn vào cứ điểm. Tiếng hoả tiễn bay, đạn réo xé màng
tai nghe rất lạ và kinh hoàng. Kể từ buổi sáng đó anh và các bạn sống trong địa
ngục trần gian và hầu như không lúc nào được ngơi nghỉ, hết pháo là tới xung
phong biển người. Quân Dù chuyên tấn công mà lại bị trói chân trong lênh tử thủ
khắc nghiệt nhưng các anh đã chiến đấu kiên cường. Rồi khu trục lên vùng, trực
thăng vào trận. Nhiều căn cứ hỏa lực yểm trợ pháo tối đa, nên các đợt biển người
tạm bị đẩy lui. Xác chiến binh địch và cả rừng vũ khí trải kín sướn đồi.
Nhưng ngày sau ba ngọn đồi quyết chiến ấy
đã bị vây chặt. Pháo tầm xa 130 ly, hoả tiễn và đại bác 122ly vẫn nổ đều đặn
trên chiến hào để chuẩn bị cho một lần tấn công biển người nữa. Nửa số quân Dù
đã bị loại ra khỏi vòng chiến, thương binh tử sĩ nằm la liệt trong chiến hào
khiến đi lại khó khăn, tiếng rên xiết của
thương binh làm anh tê dại. Các hàm ếch được binh sĩ móc thêm thật sâu để
tránh đạn pháo 130, thường chui xuống đất một thước mới nổ. Ngay từ ngày đầu
Beo với Xiếu tử trong một hàm ếch họ đã đào xuống thật sâu thành một hầm đủ cho
ba người và anh có thể liên lạc máy thoải mái. Nhưng anh thường chiến đấu như một
khinh binh với khẩu M79 mà tầm đạn bay xa hơn 400m vì được bắn xuống từ trên
cao. Rồi đạn cũng cạn dần, bông băng thuốc men đã hết. Quân y đại đội lăn trong
vũng máu, bác sĩ tiểu đoàn không cầm ống chích, ống nghe mà ôm M16 hò hét, thúc
đẩy anh em đánh trả kịch liệt… Năm anh thi tú tài thằng bạn là Tô Đồng bảo: anh
Liệu tao học bác sĩ, thế ra là ông này, uống rượu như hũ chìm, trông cũng bậm
trợn như thằng Tô Đồng- thằng này đánh lộn thường xuyên.
Ngày qua ngày, đạn pháo vẫn mờ mịt
giáng xuống ba ngọn đồi. Các chiến binh vẫn can trường chiến đấu dù đói khát từ
hai hôm rồi. Xế chiều pháo chợt ngưng và địch quân từ những hố cá nhân vùng dậy.
Những giải vàng vàng xanh xanh vắt ngang dưới ba ngọn đồi là những bộ kaki vàng
giắt lá ngụy trang hàng hàng lớp lớp xông lên miệng hô giết giết.
Chiến
hào nhiều chỗ đã bị cầy nát tung toé, nhưng các binh sĩ Dù như những con dế đất
chui ra, họ thẳng người lên và bắn trả rất đẹp mắt. Hôm nay anh em bạn bè cha
con kẻ Bắc người Nam lại được quay cuồng vùi quyện trong một cuộc thư hùng tử
sinh… Phòng không địch rất lợi hại, núp trong núi đá mà pháo binh không thể móc
ra được. Hai khu trục trúng đạn, một cái bốc cháy như ngọn đuốc bay, một cái
kéo theo đuôi khói. Trực thăng cũng chung số phận và không thể nào hạ xuống tiếp
tế hay tản thương, nên Bắc quân không ngờ nhiều con chim sắt đang lao tới. Bom lửa napalm ào ạt trút xuống lưng đồi. Lửa đen cuồn cuộn
từ trên trào xuống dưới, lửa đỏ từ dưới liếm lên trên, lửa đâu mà nhiều kinh khiếp mà nóng rát mặt các chiến
binh Dù, lúc này không bắn nữa mà đứng yên nhìn Bắc quân chìm trong biển lửa, một
thứ lửa xăng pha với cao su, đã dính vào thì khó lòng dập tắt. Họ la hét lăn lộn
trong ngọn lửa bạo cuồng, nhiều người tháo chạy xuống đồi như những ngọn đưốc di động. Chiều xanh mây trắng lửa đỏ
máu hồng và những tiếng la tuyệt vọng như xoáy vào tim anh - người chiến binh
đa tình đa cảm - anh đứng bật dậy bước nhanh xuống dòng Poko xinh đẹp đang lấp
lánh dưới kia trong nắng mùa xuân…
Đúng là anh không lạ gì với địa thế nơi
đây. Cái giải lụa trăng trắng ở phía đông mà đứng trên cao anh nhìn thấy đang uốn
lượn qua núi đồi chính là quốc lộ 14 chạy từ Pleiku lên Kontum qua Tân Cảnh,
Dakto, Daksut tới Tumeron. Địa bàn đeo ở cổ anh và bản đồ hành quân trong áo đã
mất. Chắc thằng Xiếu và những người còn sống đang dùng để tìm về đơn vị. Anh mừng
cho họ có được hai thứ ấy, phần anh không lo lắng lắm vì anh yêu thích núi rừng
và có khả năng mưu sinh thoát hiểm. Ngày nhỏ những buổi trưa êm ả khi mọi người
trong ty học chánh đã về nghỉ ngơi, anh hay ra ngồi vào cái ghế bự của cha bắt
đầu đọc những tạp chí văn nghệ mà bộ Giáo Dục gửi tới. Khoảng thời gian này tạp
chí Văn Nghệ Học Sinh, Sáng tạo được anh chiếu cố nhiều nhất, các tác giả Duyên
Anh, Thanh Tâm Tuyền, Vũ khắc Khoan , Võ Phiến làm anh mê mẩn, thay thế hẳn cái
thời phải trẻo lên cây khế, kiếm chỗ chạc ba vững chắc đọc lén các truyện kiếm
hiệp của Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Phụng. Một cái khác cũng làm anh mê, đó là tấm
bản đồ Kontum chiếm gần hết một bức tường. Núi đồi sông ngòi làng mạc anh đã đi
qua đều nằm trên bản đồ đó. Các địa danh như: Dak Ruông, Chu H’ Reng, Ngok
Lĩnh, ngay cả làng Kroong có em Dung xinh đẹp của thằng Beo vẫn hiện ra rõ ràng
trong trí nhớ anh. Sông Dakbla khởi đi từ nhiều nhánh nhỏ, lượn lờ quanh thị
xã, uốn mình như con long về hướng Tây, rồi đâm thẳng vuông góc vào sông Poko.
Hai con sông hợp lại xuôi Nam chảy tới thác Ya Ly; nước nhiều đổ từ trên cao xuống
một quần thể toàn những đá, như cái miêng loa, vang âm đi rất xa. Anh đã đến đấy,
còn giữ mãi ấn tượng một ngày lồng lộng âm thanh của nước rơi trên đá, của
thiên nhiên hùng vĩ thoang thoảng mùi lan rừng. Sông ngòi miền Trung thường chảy
từ Trường Sơn ra biển, riêng sông Dakbla ngắn mà quằn quại này lại hướng về
phía mặt trời chiều. Cho nên tên Dòng Sông Chảy Ngược kỳ lạ đôi khi được lập lờ
nhắc đến như một huyền thoại cho miền cát trắng thơ mộng hiền hoà này.
Ty học chánh có một xe jeep quân đội đã
sơn lại dùng để cha anh đi thăm trường hay chuyên chở những học cụ như bút mực,
sách vở, phấn viết, thực phẩm khô cho các trường học sinh Thượng ở xa. Người
tài xế tên là Lê có cái mũi cao mỏng, cặp mắt linh hoạt như mắt chim và cái miệng
rất tươi; hôm nào phải đi xa một mình, chắc là buồn nên thường nháy nhó anh đi
theo. Có khi đi rất xa như tới Dak Sut hay Tumơron., mẹ anh sợ nhưng cha lại bảo:
để nó tiếp xúc với thiên nhiên và tập can đảm, vả lại tài xế Lê rất tháo vát
còn biết cả sửa xe. Được thể anh xách theo cây kiếm Thượng mà ông Paul Nưa đã
cho cha từ lâu; ông này sau làm tới Tổng Trưởng Sắc Tộc. Từ đó những chiều
nghiêng nắng, đồi cao vực sâu, nhà sàn mơ màng trong sương non cao, núi rừng thầm
kín biết bao nhiêu tình; anh mến cảnh, yêu cả người… Quốc lộ 14 như cái xương sống
dẫn anh đến bao trường học làng mạc của những con người thật thà chất phác ấy.
Có hôm anh được đến làng Kroong. Vì ban
ngày lũ nhỏ phải phụ cha mẹ chúng làm việc nên lớp học bắt đầu từ sáu giờ chiều
tại nhà Rông, là nhà làng, lớn hơn những nhà khác với mái dựng đứng cao ngất. Học
trò đến trường trên những cây sào. Chúng đi nhanh gần như tốc độ xe đạp trên
hai cây sào từ các nhà sàn cao trong làng đến nhà Rông mà chân không hề chạm đất.
Một đèn Manchon được thắp soi rõ bảng đen, Học trò ngồi trên sàn nhà. Cha anh,
tài xế Lê và anh ở phía sau. Giáo viên là một thanh niên người Kinh giảng bài bằng
tiếng Thượng. Lúc cuối giờ gọi một cô bé chừng mười tuổi rất xinh lên bảng kiểm
bài để cho ông thanh tra thấy trình độ học sinh; tất nhiên ai cũng biết giáo
viên đã gọi lên bảng đứa giỏi nhất. Anh nhớ mặt nhưng không nhớ tên, không biết
có phải là Dung em gái Beo không. Tám năm qua rồi, chắc em bây giờ đã thành
bông hoa rừng hương sắc.
Chiều đang xuống nhanh, giờ không phải
lúc ngồi trên bờ sông mơ màng. Tối nay anh không được ở bên cạnh bao nhiêu đồng
đội thân yêu nữa, anh sẽ nằm co trên đồi vắng hay một xó rừng quạnh hiu nào đó không
có thằng Beo lo cà phê thuốc lá, không có thằng Xiếu kể chuyện tiếu lâm quên đi
tiếng u u buồn tẻ của máy PRC-25 bên mình nó. Anh đã quyết định đi xuôi theo
sông Pôkô thay vì quốc lộ 14, con đường đó xuôi Nam đến Kontum là gần nhất,
nhưng anh biết nhiều sư đoàn Cộng quân đang dùng đường đó để tiến về vây hãm
Kontum. Anh mong gặp quân bạn đang lạc lõng, nhưng anh cũng sợ những toán địch
để lại còn đang truy kích. Sông Poko chạy song song quốc lộ 14, xuôi về Nam thì
sông ở bên phải, quốc lộ 14 ở bên trái; anh tìm một khúc sông rộng nước cạn để
lội qua, đi theo sông bên hữu ngạn sẽ an toàn hơn. Cũng may mùa hè sông ít nước
nên chỗ sâu nhất chỉ ngang ngực.
Đêm nay không trăng, nhưng có nhiều sao,
trời tối mơ mơ; nhật ký hành quân của anh ghi ngày 15 tháng 4 năm 1972. Đã mười
hôm, kể từ ngày trực thăng đổ quân xuống ba ngọn đồi, anh mới được tháo giầy ra
xoa nắn bàn chân đau đớn móp méo. Nước con sông êm đềm trôi đi những thương
tích nhục hình của đia ngục trần gian. Anh chưa đi được xa, nhìn xéo qua bên
kia sông đồi cao chất ngất, lửa vẫn cháy bập bùng từng đám; lửa của mười ngàn
quả đại pháo tầm xa, lửa của bao nhiêu hỏa tập cận phòng cùng với bom xăng tàn
phá núi rừng âm u, lửa hung tàn đốt cháy quê hương hiền hoà còn lâu mới tắt. Thỉnh
thoảng lại có ánh sáng loé ra bay lên cao và tiếng nổ nhỏ lụp bụp theo sau, chắc
là linh hồn các bạn anh từng đứa một bay đi về trời, nơi an lành, chỉ có yêu
thương không thù oán. Riêng có một đứa làm anh ray rứt mãi không thôi.
Tháng 8 năm 1954… Hà Nội xám ngắt u buồn,
phố phường vắng hoe và nhà nhà đóng cửa im lìm vì phần đông đang chuẩn bị vào
Nam. Trường cũng đã đóng cửa, anh thường đứng chơi trước nhà,căn nhà dành cho
gia đình hiệu trưởng ở sân chơi trong khu trường nhỏ. Nhà bé có ba gian nhưng nền
lại rất cao, gần đó là giếng nước và nhà bếp; một cây xung mọc nghiêng, nghiêng
đến mức có thể leo lên cưỡi ngựa được. Sân chơi này rất lớn, có bóng mát của những
cây lim, cây sấu, cây bàng. Ngày nghỉ, các bạn anh cũng hay đến chơi; nếu phải
giã từ mảnh sân này chắc là buồn lắm. Một hôm ông Sính, người gác trường chạy vội
tìm cha anh:”thưa ông con bắt được một thằng ăn trộm”. Cha tôi rất ngạc nhiên
vì trường học thì có cái gì để trộm, nhưng ông cũng theo qua bên trường lớn.
Tên trộm là một thằng bé xanh xao cỡ tám, chin tuổi, nó đứng run rẩy, hai tay bị
trói dính vào cái xe bán quà rong mà giờ chơi ông Sính thường đẩy ra bán cho học
trò. Ông Sính kể lể: “con nghe tiếng nhai rau ráu, chạy vào mới tóm được nó, nó
đang ăn khoai rán tẩm đường trong bọc giấy này đây thưa ông”. Ngã ngũ ra thì nó
khai là học trò trong trường , nó đói đã ba hôm, bố thì chết trận, mẹ thì đau ốm.
Mặt nó cứ cúi gầm xuống. Cha anh cởi trói cho nó, rồi cho nó tất cả tiền ông
mang theo. Chưa bao giờ anh thấy cha khóc, nhưng lần này nước mắt chạy quanh.
Còn anh vội vã bỏ về; tuy nó cứ cúi gầm mặt xuống đất vì xấu hổ nhưng anh chợt
nhận ra cái sẹo lớn bên thái dương nó. Nó là thằng Huân học cùng lớp, đứa bạn
hay đến cái sân trường này chơi với anh; có khi hái táo gai, một cây táo gai nhỏ
nhưng già cóc, khuất lấp chỉ có nó với anh biết. Có khi đổ nước bắt dế trong những
cái lỗ dế ở, hay bắt ve sầu bằng cây sào dài đầu có dính nhựa.
Anh cầu cho đứa bị anh bắn gục bằng khẩu
colt không phải Huân, nhưng càng lúc hình ảnh, dáng điệu, cái nhìn của nó anh
càng nhận rõ đó là chính nó. Bây giờ sinh Bắc tử Nam,không biết tối nay hồn thằng
Huân có linh thiêng bay về báo cho bà mẹ đau yếu của nó biết chưa? Có nói rằng
con bị chính đứa bạn thân bắn chết không?!... Phải chi quân ta thắng: những người
lập công bẩn như những con chuột cống sẽ đứng ưỡn ngực nhận huy chương từ tay
tướng vùng hay sư đoàn trưởng. Những ông này áo quần thẳng nếp hồ, mắt đeo kính
mát tay cần can chỉ trỏ. Một núi vũ khí sẽ được lính gom về cho phóng viên chiến
trường chụp ảnh đăng báo. Những thằng lính khác sẽ đi lục túi áo túi quần những
đứa bên kia tử trận để biết tên tuôi ngày sinh, quê quán mà mấy em gái hậu
phương sẽ thông báo trên đài Mẹ Việt Nam. Còn gì nữa nhỉ, ồ còn mấy cái xác.
Lính miền Nam thì quấn poncho từng hàng dài chờ trực thăng tới rước về nghĩa
trang quân đội, cái nào mới thì xẹp lép vì mất máu mất nước, cái nào cũ thì phồng
lên xanh xanh như đòn bánh tét. Trực thăng lớn sẽ thả một hoặc hai máy ủi xuống
chiến trường. Sau khi đào một cái hố vừa sâu vừa dài, máy sẽ đi gom các tử thi
đẩy xuống hố, rắc vôi bột và lấp đất lại phẳng phiu. Chừng ít tháng cỏ sẽ mọc đầy;
gió lại thổi vi vu trên những mồ hoang cỏ dại ấy. Nhưng hôm nay thằng Huân ở
bên thắng trận. xác của nó sẽ được đồng đội chôn ở đâu đó và mẹ nó còn lâu mới
biết tin. Khổ cho anh, bạn cũ nhìn nhau chỉ có một giây, nhưng hình ảnh nó gục
ngã in vào võng mô cho đến hết đời!
Đã mấy hôm rồi anh theo sông Poko xuôi
Nam, ngày đi đêm nghỉ, nhưng anh chẳng đi được bao nhiêu. Những vết thương ở
bàn chân và ở vai, thay vì được tĩnh dưỡng nay phải hoạt động, nên có dịp bùng
phát đau đớn. Anh cũng không thể lợi dụng bài học vượt sông để đi xuôi dòng;
nghĩa là dùng poncho gói ba lô và vật dụng khác thành một cái phao nổi mà bơi
theo; trời nắng sáng rõ, anh có thể trở thành điểm nhắm cho địch ở bên kia
sông. Vượt sông luôn luôn nguy hiểm, ngay cả lúc được quân bạn yểm trợ. Núi rừng
cao nguyên mùa xuân vẫn xanh mướt lá hoa. Anh khập khiễng hết lên đồi lại xuống
lũng, lòng khá hoang mang tìm về đơn vị khi đất trời mùa xuân đang chuyển mình
rực rỡ. Những con két nhỏ nhiều mầu kêu la
inh ỏi, những con chàng bè bay từng đàn trắng xoá, nhiều cụm lan rừng
trên cao tỏa hương như muốn níu anh vào một nơi hư không lặng lẽ an bình. Những con thú lớn như hươu nai , heo rừng
không thấy nhưng thú nhỏ như chim, gà rừng, cheo, chồn hương anh vẫn săn được;
thành ra cuộc trở về lại giống đi chơi, dưỡng bệnh.
Anh đi đã được hơn một tuần. Tối nay dừng
chân trên một đồi cát, nhật ký hành quân anh ghi ngà 24 tháng 4 năm 1972. Mấy
hôm liền rồi, nhìn về phía Đông không xa, lửa khói ngập trời. Hỏa châu thắp
sáng bập bùng, chợt loé sáng chợt tối trong đêm như những linh hồn đang hấp hối.
Những đạn đạo sáng ngời của đại pháo và hỏa tiễn như những bước chân dài của thần
chết đang muốn lấy đi những đời trai can trường, những Dũng những Hải những
Quang, những bạn bè dũng cảm hiên ngang của anh, của sư đoàn 22 đang trấn thủ
Dakto, Tân Cảnh. Anh biết sư đoàn 22 là sư đoàn duy nhất có tới bốn trung đoàn
nhưng cũng không thể cản nổi nhiều sư đoàn Cộng quân; cho dù họ đã bị thiệt hại
nặng trước khi tới đó. Biết làm sao bây giờ, những người trai phong sương như
anh như bạn bè anh và lời nguyện trở về quê Bắc lầm than: “Mẹ ơi thôi đừng khóc
nữa, cho lòng va nặng sầu đau, con đi say tình chiến đấu, đâu có quên tình cố
hương”.
Bấy giờ đã vào tháng năm. Anh vẫn còn lê
đôi chân thương tích, nhọc nhằn; nhưng hôm nay anh đã thấy dòng nước dâng tràn,
con sông nở rộng, tai nghe tiếng sóng vỗ rì rầm. Chắc là đúng như Beo đã nói. Sắp
tới chỗ sông Dakbla đâm thẳng vào dòng Poko. Chung quanh đây hình như có nương
rẫy, nhưng cây cỏ đã khô quắt héo tàn, anh tìm mãi mới bẻ được vài trái bắp nhỏ
khô cứng như đá; định bụng sẽ nướng lên làm bữa ăn đặc biệt. Giờ cũng đã chiều,
mai sẽ vượt sông qua làng Kroong rồi ngược dòng Dakbla đi bên phía bờ cao tìm về
chốn cũ thân yêu, nơi anh đã bỏ đi từ nhiều năm trước. Tối nay anh nằm trên
võng buộc vào hai cây ven rừng, nhâm nhi tí bắp nướng. Trăng lên soi sáng vằng
vặc dòng hợp lưu, chưa thấy làng mạc nào đâu, chỉ thấy bên ấy núi đồi trùng điệp
cao ngất. Gần sáng anh nghe thấy những tiếng động mơ hồ vang lên ở trong rừng
hay bên kia sông. Đó là tiếng đông rất thân quen của mõ tre buộc ở cổ những con
bò, mà anh nghe thấy hồi nhỏ khi đi qua các làng Thượng; tiếng khoan tiếng nhặt
ríu rít kết nối với nhau nghe như suối
chảy gió reo êm đềm.
Beo kể: làng em người ta không nuôi bò
gần nhà vì sợ chúng phá nương rẫy, mà nuôi cả đàn lớn vài trăm con. Trai làng
muốn vợ thì tình nguyện đi chăn bò. Cả năm họ dẫn bò đi ăn cỏ trong rừng sâu
núi thẳm, có một ngày nhất định vào mùa xuân chúng sẽ trở về như một tập tục
thiêng liêng. Cả làng nín thở chờ đợi cái ngày trọng đại ấy. Người lớn thì thầm
nho nhỏ và trẻ con không dám khóc! Dân làng chuẩn bị đồ ăn và những ghè rượu cần
từ nhiều ngày trước, Những đồ quý hay dễ vỡ được cất kỹ trên nhà. Rồi người ta
nghe văng vẳng tiếng mõ tre, sau đó lớn dần và trở thành âm thanh cuồng nộ khi
những vó của tất cả đàn bò hung hãn chạy qua làng. Tiếng la hét, tiếng bò rống,
tiếng nạt nộ, tiếng roi quất vun vút tiếng đụng chạm của bò khi húc đổ các đồ vật,
làm thành một thanh âm quái gở và hỗn loạn. Đã thế dân làng còn rú lên cười man
dại. Bao nhiêu chiêng trống cồng lôi ra đập loạn xạ hòa với tiếng động của đàn
bò trở về… Anh chen vô: tao nghe nói con gái người Thương khi “bắt cái nước” với
đàn ông cũng dữ dội lắm hả?” Beo cười: “ rồi ông thầy cũng biết thôi mà”. Beo kể
tiếp là sau đó dân làng đốt một đống lửa thật to, một con bò đực bự nhất được
giết tế thần. Dân làng say sưa nhẩy múa ăn uống tới mấy ngày. Cái đầu con bò được
cắm trên cọc hàng rào, lâu ngày chim kên tới rỉa thành xương sọ trắng hếu.
Sau này chiến tranh tràn lan, bọn thanh
niên nhiều đứa đi lính Cộng Hòa, vì họ có niềm tin Thiên Chúa từ lâu nên đàn bò
thưa dần vì thiếu người chăn nuôi. Càng về sau càng ít, nhưng như một thói quen
tới ngày chúng vẫn âm thầm về làng, ở lại vài hôm và ra đi trong lặng lẽ. Beo lại
nói: tục lệ mỗi làng mỗi khác, muốn lấy được em Dung ông thầy phải nạp cho làng
một con bò đực và bốn ghè rượu. Nhưng chuyện đó để em lo. Anh nói với Beo: tao
với mày đi đánh hết trận này tới trân khác, bao giờ mới hết giặc. Cưới nó lỡ
tao chết có phải tội cho em mày không! Nó nói: em biết mà, ông thầy có lỗ tai bự
như lỗ tai con voi, ông thầy hên lắm, sao chết được. Xong trận này ông thầy có
bông mai nữa mà… Bây giờ thua trận te tua, nửa nhành dương liễu cũng chưa có, dễ
gì có bông mai! Còn thằng Beo bây giờ nằm lại trên đồi máu. Ngày mai anh sẽ thực
hành một mình bài học vượt sông lần đầu. Mai sẽ gặp em nó, mà biết nói gì với
em đây khi trao kỷ vật thê thảm này. Ừ thôi để mai tính.
Anh dừng lại bên một cội mai già, thân
to bằng cột nhà quằn quại uốn lượn lên cao. Chung quanh đây toàn những mai khổng
lồ như vậy. Anh có nghe nói đến một rừng mai vĩ đại, rằng vào đầu xuân mai trải
một thảm hoa vàng vô tận, đẹp và hùng vĩ đến kính sợ khiến kẻ chiêm ngưỡng vội
quỳ mọp xuống bái tạ thiên nhiên, không biết có phải chỗ này không? Nhưng bây
giờ xuân đã tàn, mai đã mọc đầy lá xanh. Anh tháo ba lô dựa lưng vào thân mai
già ngồi nhìn xuống làng Kroong mà sáng nay anh vửa đi qua. Không giống như buổi
chiều hôm ấy khi anh đến làng: những đứa nhỏ đi học lao nhanh vun vút trên những
cây cà kheo; cũng chẳng giống như thằng Beo tả: dân làng say sưa ăn uống nhẩy
múa trong ngày hội bò về, tất cả tiêu điều xơ xác. Nhiều nhà đổ xập và nhà Rông
của làng cháy hết một nửa. Không thấy những cô gái vui tươi giã gạo bang cái chầy
dài, không thấy trai làng ngồi vót ná tên. Bùi ngùi anh đi đến cuối làng chỉ thấy
những đầu bò trơ xương trắng hếu. Nghĩa
địa có những tượng người khắc bằng cây cà chít, buồn bã ngồi hai tay bưng mặt,
chống cằm, lâu ngày nước mưa soi mòn trên đỉnh đầu tượng thành những mũi dao nhọn
hoắt. Dân làng không biết đã đi đâu, họ chẳng để lại một dấu tích nào. Trên tường
nhà chỉ còn một khẩu hiệu diệt trừ sốt rét và một dòng chữ gọi ruồi là kẻ thù.
Cái buổi tối anh nghe lục lạc của bò kêu, chắc là của những con bò cuối cùng
đàn bò năm xưa trở về , không quên tình xưa lối cũ.
Bỗng có tiếng trực thăng phành phạch bay
qua, gần đến nỗi trông rõ cái mũ bay của người phi công, có thể đang đi tìm những
quân bạn còn lạc lõng trong rừng, nhưng anh không chạy ra ngoắc. Đã qua được bờ cao của Dakbla tức là đã xâm nhập
thành phố rồi, có ngoắc phi công cũng không hiểu anh muốn cái gì. Mấy hôm nay
anh thường nghe tiếng rền rung chuyển đất trời của B-52 thả bom. Tiếng rền khá
xa, chắc là bom nổ ở phía Bắc thành phố. Nếu pháo đài bay B-52 thả bom mà ở gần
chỗ bom rơi từ năm trăm đến một ngàn mét thì kinh khủng lắm. Hai ngón tay bịt lỗ
tai, cong người lại trong chiến hào rồi mà tưởng máu và lục phủ ngũ tạng bay
tung ra ngoài… Có người còn bảo lúc đó chống tay chân như hít đất thì đỡ hơn...
Con sông uốn lượn ở phía Nam, nhìn xuống dòng nước không thấy xác người xác
lính, anh biết mình đã chọn đúng cánh cửa đi vê.
Anh rút điếu thuốc cuối cùng trong bao
Quân Tiếp Vụ có hình người lính và tìm cái bật lửa Zippo của trung sĩ Ngang
cho. Đó là chiến lợi phẩm thu được từ xác một tay sinh Bắc tử Nam. Bật lửa
trông cũ vì cháy xém rất đẹp, có khắc ở nắp trên ba dòng chữ: Live Fast. Love
Hard. Die Young. Phần dưới là bản đồ miền Nam Việt Nam với các địa danh: Dakto,
Kontum, An khê, Quảng Trị, Bồng Sơn, Tuy Hòa. Anh bật lửa lên châm thuốc và giữ
ngọn lửa cháy thật lâu; nhìn lửa qua màn khói thấy hai mái đầu xanh tội nghiệp
ngồi bên nhau thân ái lắm. Chúng đang nói chuyện với nhau: -Sao mày chêt, chết ở
đâu vậy hả thằng Mẽo con? -Đang săn đuổi lũ vi xi chúng mày trong làng Tây Sơn
Bình Định thì tao trúng AK-47! -Làng đó
sinh ra người anh hùng nhất nước tao đấy. -Thế quê mày ở đâu? -Mãi tận ngoài Bắc,
tỉnh Nam Định, chả có anh hùng nào sất, nhưng có tay làm thơ cừ lắm. -Bạn Việt
Nam tao nói dân Việt đứa nào cũng biết làm thơ? -Đúng, dân tớ chỉ làm thơ và đánh
nhau, nghèo khổ lắm, mẹ già một đời ăn cơm chan nước mắt. -Thế quê đằng ấy ở
bang nào? -Tiểu bang Washington, giàu có, to lớn lắm. Nói chung dân lao động
cũng có xe hơi chạy tà tà. -Thế tại sao cứ phải qua đây đánh nhau với chúng
tao? Cái đó phải hỏi mấy ông tỷ phú với mấy cha nội tổng thống, tao làm sao biết
được... Bóng chúng mờ dần rồi mất hẳn khi anh đạy nắp bật lửa lại.
Tháng năm trời cao nguyên đã có mưa,
những cơn mưa đêm âm thầm rả rích, những cơn mưa chiều chợt đến chợt đi. Mùi đất
mới bốc lên ngai ngái kéo anh về dĩ vãng của những lớp học ngày mưa, những lúc
tan trường chung đường chung bước. Mưa không cản bước tiến mà còn làm anh háo hức
thêm trên đường về kỷ niệm. Hình như chân cũng bớt đau, hình như anh khoẻ lại,
bước những bước dài vững chắc bên bờ sông ngoằn ngoèo uốn khúc như cánh tay
thon mềm. Gần đến nơi rồi, anh biết đang đi trên địa phận của làng Phương Quý.
Quốc lộ 14 xeo xéo với hướng anh đi càng lúc càng gần và chỉ cách một khoảng rừng
rậm, gần đến nỗi về đêm có thể nghe được tiếng xích xe tăng nghiến trên đường
đá, và súng nhỏ nổ râm ran. Anh đoán chừng phía Nam thành phố hầu như bỏ ngỏ,
con sông Dakbla bao bọc phía Nam. Cửa ngõ duy nhất để thông thương với Pleiku
là quốc lộ 14. Hồi anh đi, cầu sắt đã làm xong là để thay thế cái cầu gỗ thấp
mà khi mùa mưa lụt là không thấy nó đâu nữa. Từ đó để đi Pleiku hầu hết xe cộ
chỉ qua cầu sắt. Lâu lâu xe của sở công chánh mới dùng cầu gỗ để qua lấy cát.
Đoạn đường men theo sông về thành phố không phải lên đồi xuống lũng nhưng qua
nhiều địa hình khá trống trải: rừng thưa, ruộng lúa, bụi rậm, làng Thượng,
nghĩa địa và bãi cát: nhưng đi qua tất cả mà không bị phát hiện vì không có địch
mà cũng chẳng có ta.
Chiều hôm sau đến môt cánh rừng bên sông
anh đã trông thấy đảo cát, hai cây cầu gỗ, xa hơn là cầu sắt thật cao. Cầu gỗ
trông hoang tàn nhiều nhịp đã xập. Lấp lánh trong nắng chiều dòng nước vẫn lặng
lẽ trôi như chẳng cần biết rằng cậu thiếu niên ngày xưa đã trở về đây. Cậu sẽ
cùng các bạn cũ tiếp tục chiến đấu để bảo vệ trường xưa, dòng sông, đảo cát, miền
thơ ấu cũ.
Lúc nửa đêm anh mới quyết định bước ra
khỏi rừng và gặp ngay một con đường đá. Đường này lượn theo sông rồi chênh chếch
đi vào thành phố. Đêm không trăng, nhưng nhiều sao, đạn pháo vẫn nổ rền từ khu
nghĩa địa và nhà thờ chính toà. Hỏa châu vẫn leo lét soi phía Bắc, anh lờ mờ đọc
được tên con đường đang đi là Hai Bà Trưng ở một ngã tư. Hình như khi anh rời
thành phố người ta chưa mở con đường này. Chung quanh đây không có nhiều nhà cửa
bị phá hủy. Anh tiếp tục đi theo cảm tính và gặp một lúc bốn con đườn khác chụm
lại vào đây như một ngã năm. Anh khựng lại vì thành phố cũ nhỏ bé xưa làm gì có
ngã năm! Định thần đọc tên đường thì đúng nơi tay phải là đường Ngô Quyền, anh
đang đứng trước cái góc nhọn hình tam giác của miếng đất trường cũ. Lúc này anh
bàng hoàng đi như mộng du, không để ý rằng có một xác chết thiếu nữ ngay trong
sân trường, trường đã xây cất thêm nhiều, có cổng và tên mới. Anh cứ đi như mơ,
như có ngưòi cõi âm dẫn dắt. Qua những cây keo cây muồng tan tác vì đạn pháo,
xác người hàng hàng lớp lớp nằm trong sân vận động được bọc trong những bao trắng
xoá. Qua tường tiểu học, qua đường Lê thánh Tôn, quẹo vào Lê Lợi. Anh mỏi mệt lắm
rồi nhưng có tiếng ai như thúc giục:”còn tí thôi mà Hào đi không nổi sao?”.
Anh bỗng dừng lại trước một căn nhà. Mặt
tiền bị phá hủy, nhưng vẫn thấy thân quen, thì ra là mùi bông sứ níu chân anh.
Anh bước lên những bậc cấp, gạch gỗ ngổn ngang dưới chân, đèn pin cầm tay run
run soi từng góc nhà từng bức tường. Lúc này tỉnh hồn, anh biết rõ anh sợ trông
thấy cái gì rồi. Nhà trong và nhà bếp vẫn còn nguyên. Hình Túy treo trên tường
do anh vẽ vẫn còn, một cô Tuý sắc sảo và tinh nghịch đang quay nhìn ngang.
Phòng kế bên có một giường sắt rất lớn, kiểu xưa với rất nhiều hoa văn, mền gối
với màn trắng tinh như chờ đợi người nằm. Khu nhà bếp mới thật sự là nơi sinh
hoạt. Tám năm trước anh đã đến đây, đã ngồi trên một trong hai bộ ván gõ thật lớn
này, có bạn bè thân thương và Tuý hiền hoà nấu chè mời các bạn. Một cái võng
căng giữa hai cột nhà đen bóng. Anh tháo ba lô, súng đạn và ngã mình mệt mỏi
lên võng, nhưng mơ màng như anh vẫn thường mơ: buổi sáng có tiếng nước reo
trong lò bếp, và dáng em hồng lên với nắng mai. Anh với em ngồi bên cái bàn gỗ
mộc này nhìn ra vườn: cây vú sữa già vươn những cánh tay dài trĩu quả, cây thị
khổng lồ và cây hoa gạo có hoa đỏ tươi đứng gần bên giếng nước. Mùi hương
thoang thoảng của trà xanh và hoa sứ bay trong không gian êm đềm. Em bảo: anh
như ngựa non thích rong ruổi, như thuyền biển thích ra khơi! Anh nói: hết chiến
tranh rồi, anh về đây với em chứ đi đâu: sân nắng cũ, vườn niên thiếu, ngày
thanh xuân, sẽ quên đi những mùa chinh chiến ấy, mưa chưa bay trên từng nấc
thang đời… về đền em giấc mơ bao ngày vắng xa.
Năm giờ trời đã sáng và đại pháo của
địch bắt đầu rót vào thành phố, nghe như đạn nổ ở khu hành chánh, là chỗ tòa
hành chánh và các ty sở đều tập trung ở đấy. Ty tiểu học nơi anh đã ở nằm giữa
Ty Bưu Điện và Ty Thông Tin. Mỗi khi gửi thư chỉ cần đi lên vài chục bước,
nhưng đi xuống vài chục bước là dẫy nhà sau của Ty Thông Tin. Buổi chiều khi Ty
Sở đã nghỉ có thể tìm anh Quốc Thậm, nhạc sĩ của Ty Thông Tin. Anh ốm nhom, tóc
uốn dợn sóng, chơi được nhiều nhạc khí như phong cầm, guitar, vĩ cầm và
mandolin. Nhiều đêm anh Thậm mang đàn ra sân và đàn cả đêm với người thiếu niên
tri kỷ. Không biết giờ anh chạy đâu, lũ nhạc khí còn nguyên hay tan tác hết rồi!
Giờ thì anh thấy nơi góc nhà là một đống bao cát, chất cong
lên như một công sự phòng thủ. Thì ra những bao cát này bọc chung quanh và ở
trên một bộ ván gõ rất dầy, chỉ chừa một cửa để chui vào. Nằm thẳng chân dưới bộ
ngựa đó anh nghĩ đến Túy và an tâm chờ đợi.
Lại lơ mơ ngủ nữa nhưng anh chợt nghe
loáng thoáng tiếng người và cả tiếng nhạc! Chui ra khỏi hầm thì tiếng động nhỏ
đi. Anh biết ngay tiếng động phát ra từ trong hầm bao cát; chẳng khó khăn anh
đã tìm ra cửa hầm thứ hai, có bậc thang xây đi sâu xuống. Đúng là một kiểu hầm
chữ A mà bọn anh thường phát hiện của địch trong hành quân, nhưng được xây cất
chắc chắn và sạnh hơn nhiều. Đây là một kiểu hầm trong chiến tranh Việt Pháp, hầm
có sức chịu đưng bom đạn lớn lắm. Đỉnh chữ A với tay cũng tới, không gian ở đây
giống như một cái lều to hình khối tam giác, phần đáy hầm dài rộng bằng hai cái
giường, có trải nệm, có mền gối, cả khăn áo, mà sao có luôn cây đàn của anh ở
đây nữa! Một bàn gỗ thấp ở cuối hầm trên có cây đèn dầu, một quyển vở và một
radio nhỏ, đang phát thanh cũng rất nhỏ chương trình của đài Sài Gòn.
Thì ra nàng vừa rời khỏi đây thôi, một
căn phòng nhỏ riêng tư và ấm cúng. gấp gì mà quên cả tắt máy! Anh mừng quá,
châm đèn lên và bắt đầu đọc những trang vở:
……………………………………………………………
Anh thân yêu,
Khi anh đi rồi, nơi em đã buồn lại càng buồn
hiu hắt. Đám bạn đứa đi học xa đứa đi lấy chồng, chẳng còn được bao nhiêu! Những
ngày vui qua nhanh như gió thoảng. Tưởng tượng ra em đi, ở trong một căn nhà cổ
xưa rộng lớn với cha già. Tuy cha con rất thương yêu nhau nhưng vẫn là hai thế
hệ xa vời cách biệt. Em ở lại nhà tự học và cũng đi thi để được gần gũi chăm
chút cho cha. Nhà có mấy môn thuốc gia truyền, chỉ cần ra tiệm thuốc Bắc ngoài
chợ mua về chia thành gói nhỏ, có nhiều người đến mua thành ra cũng có việc
làm, có điều em cứ mãi thắc mắc trong lòng: sao anh đi chẳng trở về, mà cũng
không có cánh thư nào? Anh hiền hoà, đa tình đa cảm của em đâu có tệ bạc thế! Về
sau em biết thêm rằng một chấn động tâm lý ở giữa lúc tuổi trẻ và dậy thì đôi
khi mang đến thương tích tâm lý, chỉ có thời gian mới hàn gắn được, nên em cứ đợi
cứ chờ. Em đã xin dậy học ở trường cũ, là chỉ muốn tìm lại chút hương xưa. Các
thầy cũ không còn một ai. Thầy Phạm Hữu Lộc chơi vĩ cầm thật hay, còn chia bè để
cả lớp hát được những hòa ca lớn. Thầy Nguyễn văn Chút dậy nhạc thật giỏi, nhờ
thầy em hiểu nhạc lý; tới giờ thầy say sưa hát Hò Kéo Thuyền trên song Volga và
dân ca thế giới…Nhưng em biết là anh thích thầy Bùi Luận nhất phải không? Thầy
gọi anh là thằng Bắc Kỳ Di Cư nhưng thường cho anh điểm luận văn rất cao! Ừ anh
của em học dở thiệt nhưng cũng có môn hạng nhất chứ! và anh ơi, nơi chỗ chúng
mình ngồi ngày xưa cũng có hai đứa bé xinh đẹp như em như anh ngồi vào. Cũng có
khi em nói xa nói gần với chúng rằng: ngày xanh ngắn ngủi lắm, hãy yêu nhau đi!
… Biết làm sao bây giờ. Em gọi anh ngày xanh nhưng sân trường không có anh! Bước
đời rộn rã lòng hoang loạn, anh có về thương yêu Dakbla không?
……………………………………………………
Anh,
Đừng
tưởng rằng em không biết anh cũng yêu em! Không yêu, không có hình bóng em
trong đầu thì làm sao vẽ giống được! Đừng tưởng lâu lâu tối trời tới ngồi trước
bụi cây nhìn ngắm người ta mà em không biết đâu! Chỗ đó cao, bóng in rõ trên nền
trời ai mà không thấy. Em còn khêu đèn cho anh nhìn rõ luôn đấy. Còn cái đàn
banjo sao không giao cho em mà cho anh Quốc Thậm, ảnh thiếu gì đàn. Em đến chỗ
anh ấy ở xin lại, nhưng không được, năn nỉ mãi cũng không được. Em nói anh là
Huynh Trưởng Phật Tử anh phải có lòng nhân từ với đàn em chứ! Con mắt ảnh ranh
ma lắm, cái đầu lúc lắc, cái miệng rộng quạch cười cười: Nó giao anh giữ dùm chứ
có cho đâu mà anh cho lại. Em nói: thì em giữ cũng như anh giữ thôi. Em lại có
đàn để tập chơi, trong khi anh đã đàn giỏi đủ thứ rồi. Nhưng ảnh vẫn cười, đầu
vẫn lắc. Tới nước ấy em khóc nức lên, anh Thậm sợ quá lật đật mang đàn ra trao.
Em mang đàn về còn nghe ảnh móc được một câu: Cái thằng lù khù mà có ông cù độ…
Anh của em mà lù khù sao!?
……………………………………………………
Anh yêu quý,
Từ
ngày đi dạy học ở trường cũ em cũng bớt buồn. Anh thử nghĩ xem có công việc nào
thích hợp với em hơn? Bây giờ có nhiều bạn mới, là thầy cô trong trường. Có thầy
Trọng Nguyễn đẹp trai rất năng nổ công việc Văn Nghệ, Hiệu Đoàn. Có cô Yến Hoa
xinh đẹp. Học trò nam nữ đến nhà thăm thường xuyên, không biết chúng mê em hay
mê cái vườn nhiều cây trái! Có đứa học trò trai tên Hùng đề nghị mỗi ngày chở
em đến trường dạy học. Em gạn hỏi Trần Hùng đáp: Trước hết là để cô đỡ mỏi
chân, sau là vì buổi sáng có nhiều đứa trai đứng ở đầu hồi trường nhìn qua con
đường bên kia sân vân động kiên nhẫn đợi. Em hỏi đợi gì? Nó trả lời: đợi cô chứ đợi ai! Cô đi tới, thấy dáng cô
mặc áo dài trắng hay đen là chúng nó trầm trồ xuýt xoa. Em xin chở cô để mấy thằng
này hết dòm, tức ói máu! Không biết nó nói thật hay nói chơi, chứ hồi còn đi học
em nhớ anh cũng hay đứng chỗ đầu hồi trường lắm mà, đúng không? Chẳng bằng một
góc của Trần Hùng, nhờ chở được có một lần mà chạy lẹ như ma đuổi! Trường đã
xây thêm nhiều phòng để tạo với dãy nhà cũ thành một hình chữ U, có cột cờ, cổng
trường đẹp đẽ. Em thích nhất khi mà ban giảng huấn đồng ý tên trường là Hoàng Đạo,
nhà văn nhà cách mạng thích hợp với tên
trường hơn là các ông vua chỉ giỏi chinh chiến anh hả? Còn con đường Ngô Quyền
cũng được chận hai đầu không cho xe lớn đi qua, nên cánh rừng khu giọt nước là
sân chơi tuyệt vời không riêng gì của học trò mà chẳng trường nào có được. Phải
kể đó là công lao của ông hiệu trưởng mới. Thầy hiệu trưởng mới kiên nhiệm dạy
Anh văn, lo cho trường ốc, học trò không biết mệt mỏi; sao em thấy giống cha
anh quá, tất nhiên trẻ tuổi hơn nhiều…Em nhớ cuối năm đệ ngũ, bây giờ gọi là lớp tám; em mắc cười quá vì anh
chàng ham chơi biếng học của em được lãnh thưởng, trời ạ! Em đoán là để khuyến
khích anh nên cha anh, ông hiệu trưởng tiền phong của Hoàng Đạo đã đặt ra thêm
ba phần thưởng bộ môn: sinh ngữ, toán và Viêt văn, cho nên anh dính được một
cái. Phần thưởng hạng nhất của em cao ngập mặt, của anh tội nghiệp quá chỉ có mỗi
một quyển tự điển Việt Nam! Chắc anh cũng thấy khó chịu nên bước lên lãnh thưởng
mà rụt rè ngượng ngập! Sau đó anh nói với em: đó là lần đầu tiên duy nhất trong
đời anh biết cha ăn hối lộ! Là thế này, ông bà có bảy người con, sáu đi học xa
phải trợ cấp, duy nhất có anh là ở với cha mẹ. Lương thanh tra kiêm hiệu trưởng
chắc là khá nhưng làm sao cho đủ. Ổng lại
mê tự điển nên nghĩ ra kế này, một công đôi việc, vừa khuyến khích anh, vừa được
tra cứu để viết sách; người ta còn gọi cha anh là cụ Huyền, viết các bộ sách Địa
Lý, Quốc Văn , Việt Sử và cả sách Tử Vi , Phong Thủy nữa, chứ anh có mấy khi lật
Tự Điển ra đâu!... Em nghe xong vừa thương vừa kính ông hơn. Có một hiệu trưởng
như thế, các hiệu trưởng sau cũng vậy, các giáo sư cũng hết lòng và thế hệ học
sinh Hoàng Đạo sau này cũng nở mày nở mặt với đời anh nhỉ…
………………………………………………………
Anh ơi,
Vẫn
là buồn thôi, những năm sau này cha không còn ở với em mà bỏ đi tìm mẹ. Mẹ đã mất
từ hồi còn rất trẻ, em không được ở với mẹ nhiều còn bây giờ hoàn toàn là đứa
bé mồ côi. Căn bệnh phổi quái ác đã cướp mất người cha nhân hậu: ngày tết ai
còn đến nhờ vẽ tranh viết câu đối, còn ai nhờ hốt thuốc chữa bệnh, hay thảo dùm
những lá đơn. Nhà đã vắng, vườn thì rộng, buổi trưa nghe gió nghiến bụi tre Mạnh
Tông sau nhà, xé rách những tàu lá chuối hoang mang buồn bã… anh ở đâu, sao anh
không về?
Buổi chiều em hay ra sông, cũng có nhiều
người ở đây, họ với em đứng trên cây cầu sắt thật cao ngắm nhìn đất trời trong
hoàng hôn rực rỡ, nơi phiá Tây dòng nước quanh co chuyển về như chuyên chở cả một
dòng chảy bạc vàng lấp lánh; niềm vui tỉnh nhỏ của em đó! Niềm vui này không biết
còn kéo dài được bao lâu? Anh biết đấy, một cầu sắt kiên cố để xe tank đi qua
được đâu phải chỉ cho em với dăm ba người dân ra hóng mát. Liên đoàn 61 công
binh kiến tạo dựng cây cầu này, sau đó quốc lộ 14 từ cây cầu này được tiểu đoàn
công binh chiến đấu của đại uý Kha nối tiếp qua Tân Cảnh, Đakto, lên đến tận
vùng ba biên giới. Cao nguyên chắc sẽ không còn hiền hoà như hồi chúng mình đi
học. Khi cha Hoàng Ngọc Minh bị những lực lượng tiền sát của Cộng Sản giết chết
ở Dakto vào năm 59 thì những giới chức quân sự ở miền Nam vội vã thành lập quân
đoàn 2. Sau này em không thấy những anh lính lè phè của sư đoàn 12 khinh chiến
đâu nữa, một sư đoàn mạnh mẽ và đông đảo là sư đoà 22 bộ binh đã lên thay chỗ.
Một hôm trời mưa nhỏ, có người đàn ông
mặc đồ đen chân mang dép lốp đến nhà, em
nhìn mãi mới nhận ra Lê Châu, ừ mà cũng năm sáu năm qua rồi. Anh nhớ Lê Châu
không? ngồi ngay sau lưng anh đó, nhưng chỉ học hết năm đệ ngũ rồi đi đâu mất
biệt. Châu nói đến thăm xã giao thôi nhưng ngồi thật lâu giảng cho em về một đời
sống tốt đẹp hơn, không có giàu ăn hiếp nghèo, về một địa cầu không biên gới,
nơi đâu cũng cũng là người cùng quê hương với nhau và yêu thương nhau. Châu còn
thường nhắc đến một người mà hắn gọi là Bác, như một vị anh hùng, một cha già
dân tộc, sẽ đưa toàn dân qua đói khổ lầm than. Châu hỏi thăm anh, em nói anh đã
ra nhập quân đội. Châu nói nếu có gặp anh thì khuyên anh mau về với nhân dân,
chính quyền Cách Mạng sẽ khoan hồng với những kẻ biết ăn năn hối cải… Buồn cười
không? Châu tưởng em là đứa con nít quê mùa nào chứ. Mới ngày nào bạn ấy diện
sang nhất lớp: giầy da, kính mát, quần jean ống túm nhưng phá làng phá xóm cũng
nhất, nay đã giác ngộ cách mạng. Một
tháng sau ty thông tin có loan báo hai đặc công bị bắn hạ khi gài mìn định phá
cầu sắt. Có người đi xem nhận ra một trong hai người chết nằm co quắp trên đường
nhựa là thằng Châu con bà năm Hài. Đó là người bạn đầu tiên trong lớp chúng ta
phải ra đi vì những nhân danh chủ nghĩa hòa bình, độc lập, tự do hạnh phúc. Thật
đau lòng tội nghiệp quá anh!
……………………………………………………..
Anh,
Chiến
tranh đã tới thật rồi, lần này khác hồi Tết Mậu Thân. Hồi Mậu Thân thành phố
tan hoang bằng chính bom đạn của mình nhiều hơn, vì chúng ẩn nấp trong nhà dân,
cơ sở thương mại, trường học giáo đường, muốn đẩy chúng ra thường phải đánh bom
những chỗ ấy. Họ thua nhanh chóng và không mấy ngưới trở về vì họ không quen lối
đánh rải người khắp các tỉnh thành miền Nam, nhất là không được hậu thuẫn tiếp
tay của đồng bào như họ vẫn lầm tưởng! Lần này chúng tập trung nhiều sư đoàn để
uy hiếp thành phố bé nhỏ của ta. Đầu tiên quốc lộ 14 Kontum-Pleiku bị cắt đứt bằng
cách bắn những xe đò chạy đường này. Vài người dân và một cậu lơ xe chết thế là
không ai dám đi nữa, ngay cả những tay liều lĩnh đi buôn hàng bằng xe gắn máy
cũng chùn bước. Thế là Kontum mất đường tiếp tế, tiếp viện và mất cả đường rút
lui. Bây giờ em quen biết nhiều, lại thường theo dõi tình hình chiến sự qua các
đài phát thanh, để em kể tiếp: Sư đoàn
22 bộ binh trấn giữ vùng Dakto-Tân Cảnh không phải là địch thủ của nhiều sư
đoàn Bắc quân, đã vỡ trận chừng hai tuần trước sau gần một tuần lễ giao tranh lửa
đạn ngập trời. Đại tá sư đoàn trưởng và nhiều sĩ quan tử trận. Hàng ngày những
cánh quân từ Võ Định tung ra mở đường để tìm kiếm quân nhân thất lạc, rồi lại
lui quân vì sức tiến vũ bão của Bắc quân. Các trực thăng cũng suốt ngày đảo tìm
quân bạn. Chắc anh đã xem phim Gone With The Wind? Một phim hoàn hảo tuyệt vời!
Chỉ có một đoạn em thấy không hay, đó là cảnh Nam quân của tướng Lee rút về sau
khi thua trận, họ đi về khá bình thản, không có vẻ của một đạo quân tan hàng.
Có lẽ đạo diễn chưa được xem cảnh đau thương tan tác của những chiến sĩ sư đoàn
22 trở về… Và còn biết bao người đi không về, trong đó có Nguyễn Thiên và Huỳnh
Phú hai người bạn nữa của mình giã từ thanh xuân. … Sau đó là năm gọng kìm từ
các hướng Bắc, Tây và Đông đè nặng lên thành phố. Phiá Nam địch cũng không cho
mở một lối thoát. Ngon Chu Pao sừng sững hiểm trở nằm ngay bên quốc lộ huyết mạch
14 bị một tiểu đoàn Bắc quân trang bị hùng hậu cắt đứt. Tình thế thật tuyệt vọng
nhưng em lại được nghe một sĩ quan bảo rằng: Bắc quân dàn trận như thế không
đúng binh pháp. Hết đường rút thì quân dân Kontum sẽ liều chết đánh trả, chắc
gì họ đã thắng nổi. Đúng vậy anh ơi, dân chúng ai hoảng loạn thì cứ bồng bế dắt
nhau ra phi trường được máy bay C-130 chở đi di tản, ai khoẻ mạnh thì tình nguyện
phục vụ không tác chiến cho quân đội. Mới đầu em cũng ra phi trường. Cảnh tượng
ở đây thật hỗn loạn, đồng bào lê thê lếch thếch nằm ngồi chờ máy bay. Khi một chiếc
xuống thì họ chạy ùa ra tranh nhau leo lên bất kể sống chết; ngay lúc ấy đạn
pháo kích rơi tới tấp, máy bay không thể chờ lâu, vội vã bay đi và cảnh người
đu theo treo tòn ten rớt xuống đất, cành đạn pháo hất người ta bay tung lên trời.
Lần đầu em nghe tiếng đạn nổ gần xé màng tai ghê rợn lắm. Trong cái hoảng loạn của tiếng chân chạy, tiếng
người kêu khóc gọi nhau, em bình tĩnh bỏ về, tai còn nghe đạn nổ, biết là mình
còn sống. Sân vận đông ở cạnh trường bây giờ là nơi trực thăng khổng lồ Chinook
lên xuống, nhưng về sau cũng bị pháo kích không dám xuống nữa. Thành phố bây giờ
chỉ còn đường tiếp tế bằng dù, nhưng không phải cánh dù nào cũng rơi đúng chỗ.
Nằm nghe tiếng máy bay vận tải vần vũ trên bầu trời thành phố buồn bã hoang
mang lắm, Kontum đang trong tình trạng hấp hối. Bóng dáng tử thần theo từng quả
pháo rơi khắp nơi, trên phố, trên nhà, trên những con đường hoa muồng, hoa phượng
thân yêu. Xác chết đầy đường không đủ người đi nhặt, heo đói xổng chuồng ra gậm
tay chân, tha đi khắp chỗ.
……………………………………………………….
Anh thân yêu,
Nhưng
Kontum vẫn vững, vẫn hiên ngang đánh trả dù thiệt hại nhân mạng rất nhiều và
xác địch cũng rơi nghiêng ngả. Em trở thành một nữ cứu thương làm việc ở nhà
thương thành phố và ở bất cứ nơi nào cần phụ chữa. Mãi rồi cũng bớt sợ những tử
thi, những vết thương có dòi bò ra, là nhờ trông thấy lòng tận tụy của các bác
sĩ, y tá, và các nữ tu. Làm việc hối hả trong băng thuốc máu me nhưng em cũng
có được niềm vui từ các thương binh mà em chăm sóc, đó là tin tức từ những trận
đánh họ tham dự. Chính ra là em đang dò hỏi xem giờ này anh đang ở đâu, có dự
trận cao nguyên máu lửa kiêu hùng này không? Một lần băng bó ở vai cho một chiến
sĩ thiết giáp em mới biết tại sao Kontum còn chống trả kiên cường. Anh ấy kể:
là một xạ thủ đại liên của chiến xa M-41 một đơn vị thiết giáp cơ hữu của sư
đoàn 23 đang lên giải cứu Kontum, tới đèo Chu Pao trên quốc lộ 14 thì bị khựng
lại vì một lưc lượn rất mạnh của Bắc quân từ trên núi đá Chu Pao dùng súng 57
ly không giật bắn xuống, làm cháy mất hai xe. Máy bay gửi tới đánh bom cũng
không giải quyết được, phải nằm bẹp đó chịu trận trong khi mặt trận phiá Bắc
quân ta trông ngóng ngày đêm. Sau có người nhớ lại là có một đường xe be dẫn tới đỉnh núi mà lâu ngày
không ai dùng tới, nên cây nhỏ đã phủ đầy. Một kế hoạch bộ binh tùng thiết được
âm thầm khai triển. Nhiều chiến xa M-41 với bộ binh bám theo đã bất ngờ leo tới
đỉnh núi và đánh tan tiểu đoàn Bắc quân này. Hình ảnh xe tank leo lên núi đẹp
quá anh nhỉ, không biết anh xạ thủ này có thêm bớt không, chứ em nghĩ trên thế
giới đâu đã có một trận đánh bằng chiến xa kỳ lạ vậy! phải ghi vào thiết giáp
chiến sử chứ! Dù sao thì ba trung đoàn của sư đoàn 23 với thiết giáp đã chận đứng
được mũi tiến của đông đảo Bắc quân, lần này được Liên Xô, Trung Cộng viện trợ
súng ống tối tân và rất nhiều chiến xa T-54 nữa. Các thương binh khác thì kể lại
trận đánh trong thành Dak Pha tức là biệt khu chiến thuật 24 có bệnh viện 2 dã
chiến, trận đánh đẫm máu trong nghĩa địa dành từng tấc đất từng ngôi mộ. Có anh
kể trận chiếm lại nhà thờ Chính Toà rất khó khăn gian khổ, vì nhà thờ xây rất cố
này bỗng thành một công sự phòng thủ bền vững nhất của Cộng quân. Nói chung là
quân đội đang từng bước phản công. Trên trời máy bay chiến đấu vẫn ào ạt ném
bom, đôi khi mặt đất nhà cửa rung lên như động đất. Thật sự em chưa được biết động
đất như thế nào nhưng các anh ấy bảo là do các máy bay B-52 trải thảm bom đấy,
và họ đang thua… thiệt hại nặng về nhân mạng, đói khát, mất tinh thần đến nỗi
có đơn vị thiện chiến bị các lực lượng bán quân sư Phương Nghĩa bắt sống.
Buổi chiều em thường về nhà để nghỉ ngơi
tắm rửa nấu ăn. Đàn bồ câu ngày trước tung tăng qua lại trong sân, gù nhau âu yếm
nay sợ tiếng bom đạn bay hết chẳng còn đứa nào, mấy con gà em nuôi mọi khi thập
thò bước cà vào nhà nghiêng đầu nghe ngóng cũng chẳng còn một con, chó Jale
cũng trốn đâu mất. Buồn quá chỉ biết đốt lửa nấu cơm. Nhà còn nhiều gạo muối, củi
thì quơ cành khô ngoài vườn, măng tre nhiều lắm, có cả cây khế với dàn xu, lâu
lâu dừa khô rơi xuống lịch bịch vài trái, là đủ ăn rồi… chỉ thiếu mỗi một thứ…
là tình anh đó thôi!
……………………………………………………..
Tuý còn viết nhiều lắm nhưng anh đã gục
xuống bàn, chẳng biết vì mệt mỏi hay vì sung sướng. Về từ một dòng sông quanh
co uốn lượn, anh cứ tưởng chỉ mình anh đi tìm lại mối tình đã thất lạc bao năm
qua: cứ tưởng anh sẽ gặp người xa lạ, ngờ đâu tình em vẫn âm thầm mà bao la mặn
nồng như sông như biển. Em vẫn gọi anh ngày xanh nhưng sân trường thiếu vắng
anh. Tiếng đời man rợ, lòng người hoang dại cản bước sông về. Nhưng hôm nay
hình như trái đất vừa ngưng thở, em thổi cho hồi sinh anh một giấc mơ. Đừng đợi
chờ nữa, chiều đang tan trong mắt nâu, hãy lắng nghe anh hát lời tận cùng. Sông
lạc, sông lại về đem theo bao tình nhớ, và tiếng đàn run hạnh phúc sâu…
o-O-o
Lâu lắm thầy mới truy bài một lần, vì thầy tin
rằng không có nhiều đứa học trò trong lớp dám không thuộc bài. Thầy mở sổ ra, lăm lăm cây bút chì, chuẩn bị
đánh dấu những tên thầy sẽ gọi.
Theo
kinh nghiệm của anh, thầy gọi bỏ cách năm đứa một. Nếu hôm nay đứa số một bị gọi đầu tiên, thì đứa
mang số năm sẽ bị gọi kế tiếp, rồi đến đứa số mười, cho tới hết sổ.
Nếu hôm khác, đứa mang số hai bị gọi trước thì đứa số sáu, số mười một bị
gọi sau, không bao giờ sai.
Tên
anh nằm giữa danh sách, anh biết tên anh mang số mấy, nên lúc ở nhà chỉ học sơ
sơ, khi nào thấy nguy cơ đã gần kề mới lật vở ra học kỹ. Bí mật này anh chẳng dại gì mà tiết lộ, lỡ có
đứa lên méc thầy thì đúng là “làm ơn mắc nạn”.
Thường
thì cả lớp đứa nào cũng lật vở ra đọc
rào rào như tằm ăn lên, nhưng đứa nào cũng còn tin rằng thầy chừa mình ra, nên
học kiểu thụt thò đó không có kết quả.
Thầy cũng biết như vây nên không thèm cấm.
Lâm
Ngọc Thủy, tức thằng Thủy lộ, đứng sẵn nơi cửa lớp. Nó luôn luôn mặc một cái áo blouson xanh khá
bẩn, tay cầm cây roi mây dài có hơn một thước.
Đứa nào không thuộc bài thì tự giác ra cửa nằm dài và Thủy lộ thẳng tay
vụt những roi quắn đít. Thủy lộ chỉ có một
con mắt lành, con mắt bên kia đục lờ như cùi nhãn càng làm khuôn mặt có nước da
xam xám trở nên dữ tợn - thầy thật là người biết chọn mặt gởi “roi”. Những đứa nào ngày thường gọi nó là Thủy lộ,
khi “lâm sàng”, nó sẽ nghiến răng gia tăng công lực gấp hai. Thầy chỉ cho nó đánh có một roi thôi, nhưng một
roi của nó tuần sau vẫn chưa mất dấu.
Anh không những thường gọi nó là Thủy lộ mà còn gọi nó là thằng “un
oeil”. Nhân bài học Pháp văn thầy giảng
deux yeux là hai con mắt, một con mắt là un oeil. Anh nghe khoái quá, liền quay xuống nó làm lé
mắt chọc cười. Nó giận run lên mà chưa
có dịp. Nếu hôm nào anh không thuộc bài
thì chắc lết về bàn không nổi đâu!
Để
cho công bình, bao giờ cuối cùng thầy cũng gọi Thủy lộ lên trả
bài. Nó biết thân nên lúc nào cũng thuộc. Có một lần nó tắc tị không trôi, nó tự động
ra cửa lớp nằm dài. Thầy gọi con Sum lên
đánh nó ba roi. Con Sum là chị con Vầy,
nhỏ nhất lớp, vừa đánh vừa nhe răng ra cười; roi đòn nhẹ hìu như phủi bụi, làm
trong lớp đứa con trai nào cũng bất bình.
Nhưng được cái là bị con gái đánh đòn thì có cái đau khác, mà không chừng
còn đau hơn thường. Lần này thầy cũng lại
biết chọn mặt gửi “roi”.
Phải
chi thầy để cho Ngân Hạnh, Thu Hà, Mỹ Lan hay Túy làm công việc đao phủ đó thay
Thủy lộ, thì anh sẽ tình nguyện không thuộc bài dài dài.
Anh
chưa thấy đứa con gái nào bị đòn. Tụi
con gái nhát đòn lắm nên chăm chỉ học,
không thuộc làu thì cũng không đến nỗi bí xị.
Ngồi
bên cạnh anh là thằng Đỗ Thuận. Có hôm
nó bảo, nó biết coi bói. Anh nói: “Vậy
coi cho tao đi.”
Nó
bảo: “Chỉ biết coi có một thứ là tình duyên thôi. Nếu ở trong lớp mình mày thương con nào thì
tao coi liền,” nó lại nói: “Coi dễ ợt
à. Chỉ cần viết tên mình ở trên, tên con
nhỏ đó ở dưới. Những chữ nào giống nhau
thì gạch bỏ, còn lại mấy chữ thì đếm số.
Có bốn quẻ: số một là Lỡ, số hai
là Bạn, số ba là Tình, số bốn là Thù.”
Như
một viên chức xã ấp, Đỗ Thuận giải thích: “Lỡ là lỡ làng đó. Thương người ta mà không chịu nói, nẩu mang
trầu cau tới hốt mất tiêu, quẻ đó xấu hung lắm.
Bạn thì chỉ là bạn như tao với mày, có ăn chung gì đâu. Quẻ tốt nhất là
Tình, nên vợ nên chồng, suốt đời ăn ở với nhau tới đầu bạc răng long. Còn Thù thì dễ hiểu quá, thế nào cũng đánh lộn,
đổ máu lỗ đầu. Vậy thì chỉ có quẻ số ba
là tốt nhất.”
Anh
xé ngay một tờ giấy vở, viết ba chữ in tên anh ở trên, rồi viết ba chữ TUY ở dưới. Ngắm nghiá một hồi, anh bảo nó: Có chữ
nào giống nhau đâu mà đòi gạch bỏ. Nó
ghé mắt vô xem: “Như vậy là có tới sáu chữ, thì cứ đếm tới bốn rồi trở lại từ đầu. Có sáu chữ là quẻ số hai. Mày với nó chỉ là bạn thôi, kiếm con khác bỏ
tên vô đi . Anh không chịu, chê nó bói dở ẹc.
Bỗng có một bàn tay lẹ như chớp, lòn qua vai
dựt mất tờ giấy. Tiếp theo là tiếng hô rất
lớn: “Thưa thầy trò Thuận với trò Hào
chơi bói tình duyên.”
Thầy
ngưng chấm bài, trễ kiếng ngó xuống làm hai đứa xanh mặt.
-Hả
? Cái gì bói tình duyên?
-Thưa
thầy, trò Thuận bói tình duyên cho trò Hào với trò Túy.
Rồi
Thủy lộ te te mang tờ giấy có hai cái tên lên bàn thầy làm tang vật. Nó ưỡn ngực giải thích tường tận hết mọi điều
nó đã nghe từ thằng thầy tướng Đỗ Thuận nói hồi nãy. Cả lớp bụm miệng cười. Thằng đao phủ chắc mẩm kỳ này nó đập anh nát
đít. Nhưng may mắn quá, thầy cũng cười
cười chỉ tay ra cửa:
-Hai
đứa, mỗi đứa một bên, quỳ cho tới giờ về.
Cha
mẹ ơi! Còn mấy bài nữa mới tới giờ về. Chưa bao giờ anh lại mong ông cai trường đập
ba hồi trống đến thế!
Quỳ
như vậy quê một cục mà đau đầu gối lắm.
Nếu thằng Thủy lộ dòm chỗ khác, thì anh ngồi lên hai gót chân; rồi anh lại
quỳ thẳng lên khi con mắt duy nhất của nó đáo về. Anh sợ nó thưa với thầy là anh quỳ ngồi. Cái tội không thi hành lệnh phạt nghiêm chỉnh
có thể đưa tới một hình phạt khác thê thảm hơn.
Chỉ
tội nghiệp cho thầy tướng Đỗ Thuận. Nó vốn
già từ bé và loắt choắt như khỉ con. Mặt
nó rầu rầu, quỳ xuống coi lại càng thảm!
Nó từng nói với anh, nó thương con Kim Ly học lớp dưới. Chết mẹ chưa, lát nữa giờ ra chơi người đẹp của
nó tay cầm gói đậu phọng hay là chùm mía ghim sẽ ưỡn ẹo đi qua đi lại trên hành
lang này. Phải chi anh đừng chọc ghẹo thằng
Thủy lộ thì đâu có hại bạn như thế!
…Lâu
lâu anh liếc nhìn em. Tóc em hồi đó dài
lắm, hung hung đỏ, chảy xuống vai che cả má.
Bên trong mái tóc ấy hai mắt em long lanh nhìn anh, môi cười chúm chím …
-Bây
giờ tóc còn dài, mắt môi còn đẹp thế không?
Bên
kia Thái Bình Dương có tiếng Túy thở dài:
-Không
anh à. Dáng em tuy vẫn còn thanh nhưng
tóc vừa bạc vừa thưa, môi em nhăn nhúm, còn trong túi lúc nào cũng có hai cái
kiếng mắt. Anh Đỗ Thuận làm xây dựng
cũng đã nghỉ hưu. Anh ấy bói vậy mà đúng
chứ không dở đâu. Họ nên vợ nên chồng,
còn hai đứa mình suốt đời chỉ là bạn thôi.
No comments:
Post a Comment