(Viết cho Carol và John Steele)
Năm 1975, sau vài lần chuyển từ trại tạm trú này qua trại tạm trú khác ở đảo Guam, gia đình tôi được đưa đến Fort Chaffee ở tiểu bang Arkansas chờ bảo lãnh.
Mặc dù biết là mình đã đến bến bờ tự do
và đang tạm thời được hưởng cuộc sống yên lành ở một đất nước giàu mạnh nhất thế
giới, thế mà trong lòng vẫn canh cánh, vẫn thấp thỏm sợ hãi khi nghĩ đến một
tương lai mờ mịt. Chúng tôi như những con thú hoang, bị bắt vào trong cũi và thả
đến một nơi xa lạ. Nhìn cái gì cũng nghi ngờ và băn khoăn, lo lắng. Rồi những lời
đồn đãi càng làm tăng thêm mối lo âu.
Nào là vài ngày nữa, sau khi làm xong danh sách, chính phủ Mỹ sẽ đem những người
tỵ nạn đến một mảnh đất hay một hòn đảo hoang vu, cung cấp một ít dụng cụ làm
ruộng, làm vườn hay làm biển để đám dân tỵ nạn tự lực cánh sinh bắt đầu một cuộc
sống mới; nào là họ sẽ phân phối lực lượng lao động này đi làm lao công cho những
hãng xưởng hay nông trại xa xôi hẻo lánh trong khi phần lớn chúng tôi không
quen những công việc này. Tệ hơn nữa là họ sẽ dùng người tỵ nạn làm tù binh để
trao đổi với phía bên kia cho những điều họ muốn.
Những ý tưởng tiêu cực đó cứ loanh quanh mãi trong đầu tôi cho đến …
Một buổi trưa hè nóng bức, tôi đang đứng
dưới gốc cây chờ xe buýt đi lấy sữa cho con thì một người Mỹ da màu, chắc là
làm việc trong trại, thấy vẻ mặt buồn buồn của tôi, anh ta chỉ tay ra ngoài xa
và hỏi:
- Cô có thân nhân nào ngoài kia không?
- Không, ông ạ.
- Cô có muốn điện thoại cho ai không?
- Tôi chẳng quen ai và cũng không biết cách gọi.
- Tôi sẽ giúp cô gọi cho bạn hay bà con của cô.
Tôi lưỡng lự:
- Tôi chỉ biết bà xếp cũ của tôi tên là Carol
Steele ở McLean, Virginia. Nhưng vì vợ chồng bà ấy được lệnh rời Việt Nam cấp tốc
nên không kịp cho tôi địa chỉ và số điện thoại.
-
Không sao, tôi sẽ dò trong cuốn niên giám và gọi thử, may ra sẽ
tìm được bạn cô. Tôi sẽ gọi “collect”
nhá.
Tôi như người chết đuối vớ được một khúc
củi mục đang trôi lơ lửng trên dòng sông, chẳng cần biết ra sao, cũng cố với
tay bám vào nó. Tôi chẳng hiểu “collect” là gì nhưng cũng gật đầu. Thế là người
bạn mới quen bắt đầu quay số. Đến lần thứ ba thì may mắn gặp được người xếp cũ
của tôi khi còn làm cho Cơ Quan Viện Trợ Mỹ, trực thuộc tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở
Saigon.
Cầm cái điện thoại người đàn ông đưa
cho, tôi chỉ kịp xưng tên rồi òa lên khóc.
Những nỗi niềm hoang mang u uẩn chất đầy trong lòng bấy lâu nay được dịp
tuôn trào. Carol ở đầu giây bên kia cũng khóc. Tôi cố nén nỗi xúc động, kể sơ
qua cho Carol nghe về hoàn cảnh hiện tại. Carol nói:
- Tôi vẫn cố ý dọ hỏi tin tức về Hằng lâu nay
mà chưa được, bây giờ biết gia đình cô ra khỏi nước bình yên và đang ở trong trại
tỵ nạn Arkansas rồi, sáng mai tôi sẽ đánh điện xin bảo lãnh tất cả bẩy người về
đây với chúng tôi ở Virginia.
Tôi vội vàng từ chối:
-
Cám ơn lòng tốt của Carol, nhưng khi nào cô tìm được việc làm cho
tôi thì gia đình tôi mới rời trại, ít nhất ở trong này chúng tôi không phải lo
miếng ăn, chỗ ở.
Carol bảo:
-
Ở nước Mỹ này, ai cũng phải xin mới có việc làm, thôi cứ ra đây rồi
tới đâu hay tới đó, đừng sợ.
Sáng hôm sau mới mười một giờ đã có loa
gọi tôi đến văn phòng lãnh điện tín, đó là giấy bảo lãnh của vợ chồng người xếp
cũ, Carol và John Steele. Chỉ một tuần
sau, ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 1975, gia đình tôi, gồm hai vợ chồng và 3 đứa
con nhỏ dại cùng hai người em, lên máy bay đi định cư ở tiểu bang Virginia.
Carol và John ra đón chúng tôi ở phi trường.
Hai bên đường từ Washington Dulles International Airport về thành phố McLean,
Virginia, cây cối xanh tươi mát mẻ, những cây đào cành mảnh khảnh, thanh nhã,
nghiêng ngả mang những cánh hoa màu tím, nhạt có, đậm có, vài cây hoa màu trắng
mùi hương thoang thoảng dịu dàng, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào chốn
thiên thai cho đến khi Carol bảo: “Mình đã đến nhà rồi.”
Đó là một căn nhà hai tầng có năm phòng ngủ
và “basement”. Ở miền đông xứ tuyết mà
phần lớn nhà không có garage nhưng có tầng dưới mặt đất dùng để chứa đồ đạc hoặc
sửa lại thành một phòng ngủ hay phòng giải trí.
John, Carol và Chris, đứa con trai mười
tám tháng tuổi, ờ trên tầng nhì. Sau khi dẫn chúng tôi xem ba phòng dành cho
gia đình tôi ở tầng trệt, vào bếp tôi thấy ngay một bao gạo thật lớn ở dưới đất
và chai nước mắm trên mặt bàn. Carol giải thích:
-
Tôi biết người Việt Nam ăn cơm hằng ngày và gia vị chính là nước mắm
nên vợ chồng tôi đã đi lùng bao nhiêu chợ Á Châu ở Virginia mới tìm ra được
chai nước mắm này đây.
Sáng thứ hai, tôi đang sửa soạn bữa ăn
sáng cho các con, Carol đến gần lúc lắc trong tay một tờ báo với những khoanh
tròn xanh đỏ, cô ta nói:
-
Hằng, thay quần áo đi xin việc làm. Tôi đã làm sẵn Resume và điện
thoại xin hẹn phỏng vấn được ba chỗ cho cô rồi, sửa soạn nhanh lên kẻo trễ giờ.
Vừa mới ra khỏi trại tỵ nạn vỏn vẹn được
hai ngày, còn chưa hoàn hồn, nên tôi thật sự hoang mang và lo sợ nhưng cũng vội
vàng chuẩn bị sơ sài cho kịp.
Trên đường đi, lòng tôi rối như tơ vò,
dù Carol đã giải thích sơ qua lề lối xin việc ở nước Mỹ. Tôi vẫn cứ băn khoăn
lo lắng, không biết người phỏng vấn mình là đàn ông hay đàn bà, dễ hay khó, có
hỏi những câu hắc búa không và mình phải trả lời làm sao. Để đỡ run, tôi ráng
bình tĩnh bằng cách ngắm hoa hai bên đường. Trời đang xuân nên chỗ nào cũng
toàn là hoa, sao hoa ở đâu mà nhiều và đẹp thế! Giá như bình thường chắc tôi đã
đòi ngừng xe cho mình xuống thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng bây giờ, giật
mình nghe Carol bảo: “Đã đến nơi hẹn đầu tiên”, rồi thứ hai và thứ ba…
Liên tiếp bốn hôm, mọi sự tái diễn y như
thế. John và Carol đã phải lấy ngày nghỉ phép để chở hai vợ chồng tôi đi xin việc
làm, hai người thay phiên nhau vất vả đưa bẩy người chúng tôi đi làm mọi thủ tục
cần thiết để sống ở nước Mỹ như đi khám sức khỏe, khám răng, xin thẻ an sinh xã
hội, rồi đi xin trường lớp cho mọi người đi học ban ngày lẫn ban đêm, đi chợ và
còn phải hướng dẫn chúng tôi cách đi xe
buýt, tập lái xe hơi, sử dụng những đồ dùng trong nhà, từ lò nướng đến máy rửa
bát, máy giặt, máy sấy…Mỗi tối, John dạy ba đứa nhỏ học, còn Carol lo chỉnh sửa
cách phát âm tiếng Mỹ của bốn người lớn.
Những chỗ tôi nộp đơn xin việc và đã được
phỏng vấn đều hứa sẽ gọi lại trong tuần nhưng đến 5 giờ chiều ngày thứ sáu vẫn
không thấy tăm hơi.
Tôi bắt đầu nản chí và đề nghị với Carol
là thôi không xin việc văn phòng nữa mà chú trọng vào việc bồi bàn hay trong
nhà bếp. Carol bảo rằng:
-
Cô xem TV đã thấy những người chạy bàn bưng mấy cái khay chồng một
đống bát đĩa nặng chĩu, cô có bưng nổi không?
Còn trong bếp, người ta cầm những cái chảo gang một tay, còn tay kia lật
hoặc đảo thức ăn, cô có làm được không…?
Những tiếng “nổi không, được không” vang
nặng nề, chát chúa trong đầu tôi. Quả thật, tôi mảnh khảnh nhỏ bé làm sao kham
nổi những công việc tưởng dễ mà lại vô cùng khó như vậy. Mọi hy vọng tìm được
việc làm kiếm sống nuôi gia đình bỗng tiêu tan.
Đột nhiên điện thoại reo lanh lảnh và tiếng
John: “Hằng, có người gọi này”. Tôi cầm điện thoại, tiếng trả lời
của tôi càng lúc càng run, “Vâng…vâng…vâng…cám ơn ông.”
Cúp máy xong tôi bảo Carol:
-Hồi nãy là ông James, Giám Đốc
hãng National Council on Alcoholism, người đầu tiên phỏng vấn tôi hôm thứ hai,
hình như…ông ấy… nhận tôi làm việc, chẳng biết có đúng vậy không, tôi run quá
nên không chắc.
Carol bèn gọi lại ông ấy để hỏi cho đích
xác. Một lúc sau Carol trở lại ôm chầm lấy tôi lắc lấy lắc để:
-
Chúc mừng công việc làm đầu tiên ở nước Mỹ, thôi không phải đi nấu
bếp, lảm bồi bàn hay rửa bát nữa nhé.
Cả bốn chúng tôi đều ràn rụa nước mắt
trong vui mừng và hạnh phúc.
Liêm, chồng tôi, xin được chân rửa bát
buổi tối trong một tiệm ăn của Ý. Giờ giấc
trái ngược làm vợ chồng khó có dịp gặp nhau. Thế là Liêm xin những việc ban
ngày như khuân vác, sắp xếp mặt hàng cho tiệm thuốc tây, đứng tính tiền cho tiệm
giặt ủi…Carol thường nói với vợ chồng tôi là cô ấy rất khâm phục Liêm khi anh ấy
quyết tâm làm việc để nuôi gia đình dù là những việc hoàn toàn dưới khả năng.
Sau vài tháng, John và Carol bàn rằng:
- Hai vợ chồng qua đây để có một cuộc sống đầy
đủ và hạnh phúc có nhau chứ không phải như thế này. Bây giờ chúng tôi đề nghị
Liêm nghỉ việc đi học lại, một mình Hằng đi làm ăn tiêu tần tiện cũng tạm đủ.
Sau khi Liêm ra trường có việc làm vững chắc thì đến lượt Hằng nghỉ làm đi học.
Lời bàn thật hợp lý, thế là lúc đó chỉ một
mình tôi tiếp tục kiếm cơm, 6 người còn lại trong gia đình gồm chồng tôi, em
trai, em gái và ba đứa con đều đi học.
Những khi đi chợ, Carol không cho tôi trả
tiền. John và Carol lúc nào cũng bảo rằng: “Ráng dành dụm để sau này mua
một căn nhà nho nhỏ.” Từ ngày ở
đây, tôi luôn luôn nấu món ăn Việt Nam cho cả gia đình mười người. Cậu bé Chris
ăn quen rồi bỏ luôn thức ăn Mỹ. Sau này Carol thường nói:
- Khi nhận bảo lãnh gia đình Hằng, mối lo lắng
nhất của tụi tôi là tiền ăn cho mười người, nhưng khi Hằng đảm trách phần nấu
ăn thì đã cho mọi người ăn những món ăn Việt thật ngon mà lại chỉ tốn kém bằng khi chúng tôi nấu theo kiểu Mỹ
cho 3 người ăn. Quả là tuyệt vời!
Một hôm thật bất ngờ, vợ chồng tôi nhận
được một lá thư của Tòa Bạch Ốc. Cầm cái phong bì trong tay mà lạnh xương sống,
không biết có chuyện gì đây, chắc hẳn dữ nhiều hơn lành, điều sợ nhất là bị trả
về Việt Nam. Không ngờ Tổng Thống Gerald Ford mời chúng tôi đến dự một phiên họp
về vấn đề đồng bào tỵ nạn Việt Nam, họ muốn nói chuyện trực tiếp với những
“real refugees”, người tỵ nạn thật sự như chúng tôi.
Đến giờ ăn trưa trong buổi họp hôm ấy,
vì mới tới Hoa Kỳ được hai tuần, mọi sự đều còn rất lạ, vợ chồng tôi bỡ ngỡ, rụt
rè đi theo những người Mỹ vào “cafeteria”. Nhìn trước ngó sau, họ làm gì thì
mình làm theo. Sau khi lấy thức ăn,
chúng tôi thấy mọi người đều tìm bàn rồi ngồi xuống ăn. Nhìn quanh không thấy
ai trả tiền và cũng không thấy chỗ để trả, nên mình cũng theo họ đặt khay thức
ăn xuống một cái bàn trống. Bỗng nghe tiếng gọi sau lưng:
- Miss…miss…
Quay lại, thấy một phụ nữ Mỹ đang hấp tấp
chạy lại phía bàn mình, chắc cô ta làm việc ở đây vì có đeo bảng tên. Tôi hoảng
hốt tưởng rằng họ bắt mình về việc không trả tiền mua thức ăn. Tôi bối rối và
ngượng ngập nói:
- We are so sorry…
Người đàn bà bảo rằng:
-
Sao cô lại “sorry?”
Trời ơi, cô mặc cái ‘áo dài’ đẹp quá! Tôi muốn hỏi cô mua hay may ở
đâu vì bạn trai của tôi trước đây đi lính chiến đấu bên Việt Nam, anh ấy ca ngợi
hết lời về sự tha thướt của cái áo dài và người phụ nữ Việt Nam cho nên tôi muốn
có một cái mặc cho bồ tôi ngạc nhiên.
-
Thế mà cô làm tôi suýt đứng tim. Áo này tôi đem theo từ Việt Nam.
Chúng tôi mới định cư ở đây được hai tuần, chưa quen biết lắm nên rất tiếc
không giúp được cô.
Bốn tháng sau, khi việc làm của tôi có vẻ
vững vàng, chúng tôi ngỏ ý muốn dọn ra ở riêng, John và Carol đã tự nguyện đứng
tên thuê hộ một apartment vì chúng tôi không có credit và tôi mới làm việc chưa
được một năm nên không có khả năng làm chuyện đó.
Ngày dọn nhà, John tặng chúng tôi một bức tranh màu nâu có hình năm chiếc thuyền buồm do Vũ Huỳnh, một họa sĩ Việt Nam vẽ và bảo rằng bức tranh này họ mua ở Saigon mấy năm rồi, lâu nay vẫn treo ở phòng khách nhưng hôm đi phi trường đón chúng tôi về thì họ dấu bức tranh trong nhà kho vì sợ chúng tôi trông thấy sẽ buồn và nhớ nhà. Hôm ấy họ nghĩ là chúng tôi đã nguôi ngoai nên mới tặng để có một cái gì của Việt Nam và từ Việt Nam. Chúng tôi cám ơn món quà và sự tế nhị của vợ chồng John. Chúng tôi đã treo bức tranh đó ở mọi chung cư và nhà chúng tôi ở trong suốt bốn mươi năm qua với lòng yêu thương và tự hào.
Carol cũng loan báo trong nhà thờ rằng họ
mới bảo trợ một gia đình Việt Nam nên những người trong họ đạo đã đem đến cho
chúng tôi tất cả mọi thứ cần dùng trong nhà cho một gia đình bẩy người, kể cả
giường nệm, chăn mền, bát đĩa, xoong nồi, dao muỗng, thêm cả quần áo tương đối
mới và rất sạch cùng một số tiền mặt. Chúng tôi dùng tiền đó để deposit thuê
nhà và không phải mua sắm một món gì khi dọn vào.
Không biết Carol ngoại giao thế nào mà một
tuần sau, xe chở hàng của Lee Clothing đến giao cho chúng tôi ba thùng quần áo
mới và hãng Pillsbury cho mấy chục hộp bột làm bánh ngọt.
Hơn một năm sau, chồng tôi học xong, xin được làm kế toán cho một hệ thống tiệm ăn, cuộc sống tạm ổn, các con học hành chăm chỉ và ngoan ngoãn. Cuối tuần chúng tôi tụ họp với bạn bè Việt Nam, kể chuyện xưa tích cũ, thật ấm lòng!
Tuy thế, khí hậu ở Virginia vào mùa đông
quá lạnh cho những người sinh ra và lớn lên ở vùng nhiệt đới, nên vợ chồng tôi
cùng một số bạn thân, sau khi nghiên cứu kỹ càng đã quyết định dọn về vùng nắng
ấm California.
Thêm một lần dời cư là thêm một lần phải
bỡ ngỡ học hỏi để hội nhập vào đời sống nơi cư trú mới, nhưng chúng tôi rất vui
vì được ở một nơi khí hậu rất lý tưởng cho người Việt, lại đông đồng hương cũng
như chợ búa hàng Á Châu. Điều quan trọng hơn hết là lúc bấy giờ hiện tượng điện
tử ở vùng Thung Lũng Hoa Vàng đang nở rộ, hãng xưởng mọc lên như nấm nên xin việc
khá dễ dàng.
John và Carol lại nhận nhiệm sở mới ở
ngoại quốc và di chuyển đến nhiều quốc gia như Kenya, Jordan, Swaziland và El
Salvador, nên chúng tôi không thư từ qua lại một thời gian dài.
Khi sửa soạn làm đám cưới cho con gái
năm 1992, nhìn đống thiệp mời, tôi bỗng thấy như thiếu thiếu một cái gì rất
quan trọng, cuối cùng nghĩ ra là trong danh sách không có vợ chồng John và
Carol Steele mà bao nhiêu năm nay cả hai bên đều bận rộn vì miếng cơm manh áo
đã mất liên lạc với nhau.
Tôi gọi điện thoại đến mấy người bạn cũ
làm cho USAID để hỏi thăm về gia đình nhà Steele nhưng không ai rõ họ đang ở
đâu. Tôi chẳng biết làm cách nào hơn là nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chuyển thư cho
họ, có ghi số điện thoại của tôi, với hy vọng thật mong manh.
Ba tuần sau, như một phép lạ, bất ngờ Carol điện thoại cho tôi từ El Salvador, chúng tôi mừng mừng tủi tủi nói chuyện không dứt và hứa từ nay về sau sẽ thăm hỏi nhau thường xuyên.
Năm 1995, John và Carol đã trở về Mỹ để
nghỉ hưu, vợ chồng tôi đã tức tốc bay lên Nehalem, một thành phố bé tí ở Oregon
chỉ có 220 người dân, thăm gia đình người bảo trợ sau bao năm xa cách.
Từ đó đến nay, chúng tôi thường xuyên gặp
nhau, khi thì John và Carol lái xe xuống San Jose, lúc thì gia đình chúng tôi
bay lên Oregon. Vợ chồng tôi cũng xuống San Diego dự đám cưới của Chris, cậu bé
ngày nào mới mười tám tháng tuổi, nay đã là một thanh niên trưởng thành, đẹp
trai và có việc làm tốt.
Một lần tôi đã tò mò hỏi John và Carol:
- Năm 1975, lúc đó hai người chỉ hơn 30 tuổi, vừa
chân ướt chân ráo từ Việt Nam về Mỹ, mới mua được căn nhà đầu tiên mà sao dám
liều lĩnh bảo lãnh một gia đình 7 người trong đó có 3 đứa con nít? Hai người có biết là sẽ phải nuôi chúng tôi
bao lâu không? Nhỡ chúng tôi không thể tự túc hay cứ ù lì ra đó thì sao?
Carol đáp không cần suy nghĩ:
-
Khi biết cô không có thân nhân ở Mỹ và cần người bão lãnh ra khỏi
trại tỵ nạn, chúng tôi đã không hề suy tính ngần ngại vì đó là “một việc phải
làm”, chúng tôi muốn làm một cái gì cho người Việt Nam và đất nước Việt Nam,
nơi chúng tôi đã được ưu đãi với việc làm đầu tiên trong đời. Chúng tôi thương
yêu và quý mến đất nước và người dân Việt Nam, cô lại là người đã làm việc với
chúng tôi cả hai năm trời nên tôi đã biết cô là người như thế nào, do đó đây là
một dịp tốt cho chúng tôi thực hiện những điều mình mong muốn.
Cô nói đúng, dĩ nhiên chúng tôi không biết
chắc sẽ phải lo cho gia đình cô bao lâu, có thể là vài tháng hoặc vài năm, cho
nên vợ chồng tôi đã đồng ý với nhau là nếu cần, sẽ mượn tiền trong cái nhà này
để lấy tiền cung cấp cho gia đình cô và chúng tôi đã sẵn sàng để làm chuyện ấy.
Lời nói đó làm vợ chồng tôi nước mắt
đoanh tròng. Tôi chợt nhớ một điều và hỏi Carol:
-
Khi tôi cám ơn ông James, xếp của tôi ở National Council on Alcoholism,
đã cho tôi việc làm đầu tiên ở nước Mỹ, ông ấy bảo: “Thật ra tôi chẳng
cho bà một đặc ân gì mà bà nên cám ơn bà Steele, người bảo trợ của bà thì đúng
hơn, đó mới là người bạn tốt của bà”, tôi vẫn thắc mắc câu nói đó.
Carol mới “bật mí” rằng:
-
Thật ra khi thấy công việc của văn phòng này rất tốt và hợp với khả
năng của cô, tôi đã đánh bạo viết cho ông James một lá thư: “Cám ơn ông đã phỏng
vấn người bạn của tôi hai hôm trước, đây là một trong hai người phụ nữ đã được
ông Tổng Trưởng Xã Hội trao tặng huy chương năm 1970 vì đã làm việc hăng say, hữu
hiệu và hết lòng, không quản ngại hiểm nguy trong công tác giúp đồng bào tỵ nạn
Việt Nam tại những nơi đầu tên mũi đạn. Xin ông một đặc ân, cho bà ấy cơ hội làm
việc thử trong hai tuần lễ, nếu ông không vừa lòng vì bất cứ lý do nào thì cứ
cho bà ấy nghỉ việc, chúng tôi sẽ không dám thắc mắc gì. Nhưng tôi bảo đảm với
ông rằng ông sẽ không thất vọng vì tôi đã biết khả năng và lòng tự trọng của Hằng
khi bà ấy làm việc cho tôi ở Việt Nam.
- À ra thế, hèn gì ông ấy đã điện thoại cho
tôi chiều thứ sáu hôm đó vì Carol đã là một “very best reference.”
- Chắc Hằng cũng không biết rằng hai tuần sau,
chính ông James gọi điện thoại cám ơn tôi đã giới thiệu cho ông ấy một nhân
viên tốt. Carol nói tiếp.
-
Thật cảm ơn Carol, “vạn sự khởi đầu nan” đã được quý nhân phù trợ,
nhờ vậy mà sau đó tôi xin việc khác dễ dàng vì đã có kinh nghiệm làm việc ở Mỹ
và cơ hội tiến thân.
Vợ chồng tôi đã kể cho con cháu nghe chi
tiết của những ngày đầu tiên ở nước Mỹ và những lý do tại sao chúng tôi mang ơn
John và Carol Steele.
Càng gần gũi, hai gia đình càng thương
yêu, quý mến nhau hơn. John và Carol thường nói với bạn hữu và những người
trong nhà thờ rằng chúng tôi là một phần của gia đình họ. Chúng tôi cũng luôn
luôn nghĩ họ là khúc nối dài của gia đình chúng tôi trên quê hương thứ hai đầy
tình người này.
John và Carol đã trở thành ông bà ngoại của những đứa cháu của chúng tôi và hai vợ chồng tôi bỗng nhiên có một đứa cháu nội “trắng tinh” khi Chris Steele sanh được thằng con trai. Như vậy vợ chồng tôi có cả thảy 5 đứa cháu, hai đứa hoàn toàn Việt Nam, hai đứa lai Mỹ 50% và một đứa Mỹ trắng 100%.
Sau ngày lễ Thanksgiving này, tôi sẽ lo
chuẩn bị những món ăn Việt Nam mà John và Carol thích như phở, bún bò, bánh
xèo, thịt kho, gỏi…và nhất là cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc.” Thêm nữa, như
thường lệ, vợ chồng tôi sẽ cặm cụi làm 200 cái chả giò sẵn sàng cho vợ chồng
Carol và John đem về Oregon khi họ xuống đây ăn lễ Giáng Sinh với chúng tôi.
Carol và John không là bà con, không cùng giòng giống, chẳng nợ nần gì chúng tôi mà họ đã đem chúng tôi về nhà, nuôi nấng, chăm sóc, hướng dẫn từng ly từng tí, đưa các em và các con chúng tôi đến trường xin học, đến cãi nhau với chủ tiệm ăn khi họ không trả đủ tiền lương cho chồng tôi, rồi khôn khéo bảo đảm việc làm đầu tiên cho tôi, lại còn đứng tên thuê apartment cho chúng tôi ở. Hơn nữa còn dám sẵn sàng cầm cố căn nhà để giúp đỡ gia đình chúng tôi nếu cần. Những trái tim vĩ đại này không cần chúng tôi nói cảm ơn vì không có lời nào đủ để cảm tạ tấm lòng vị tha ngát hương này.
Sau ba mươi chín năm sống ở Hoa Kỳ, gia
đình chúng tôi cũng như bao nhiêu người Việt Nam tỵ nạn đã nỗ lực học hành và
làm việc cật lực để tự gây dựng một cuộc sống đầy đủ, các con cháu ăn học nên
người và chúng tôi rất hãnh diện đóng góp trả ơn cho quê hương thứ hai này. Là
công dân Hoa Kỳ cả về mặt pháp lý lẫn trong tim, chúng tôi vui với sự thịnh vượng
và cũng rất đau lòng khi thiên tai hay hoạn nạn xảy ra cho nước Mỹ.
Cám ơn John và Carol, những người Mỹ và
đất nước Mỹ đã mở rộng vòng tay cưu mang gia đình chúng tôi cũng như bao nhiêu
người Việt Nam tỵ nạn khác. Cám ơn Trời Đất đã che chở những cánh chim Việt lạc
đàn, phải từ bỏ tổ ấm, nơi chôn nhau cắt rốn, lại may mắn tìm được quê hương thứ
hai đầy lòng nhân ái và bao dung. Cám ơn những cộng đồng Việt Nam tỵ nạn trên
khắp thế giới, đã yêu thương, khắng khít, đùm bọc lẫn nhau để làm nên một khối
Người Việt Tự Do vững mạnh.
Lê Nguyễn Hằng
Mùa Tạ Ơn
1 comment:
Bài viết hay, thành thật và thật cảm động.
Post a Comment