Người đàn bà đa phu ở Tây Tạng
Trần Chính
Bà ấy giải thích rằng bởi vì
cả ba ông chồng đều sinh hoạt thân mật thường xuyên với bà nên khi có bầu bà
không thể biết chắc người nào là cha của cái bầu ấy ( ảnh : B.S. Daniel Phước
Lee)
Đến thăm Tây Tạng nhiều lần, tôi từng
nghe nói khá nhiều về tục đa-phu ở đất nước này, nhưng chỉ tận mắt nhìn thấy một
lần, do may mắn. Đó là vào tháng 3 năm 2003, khi tôi đưa đoàn du-lịch “Tây Tạng
mùa Xuân” đi thăm tỉnh tự trị Tây Tạng ở Trung Quốc.
Hôm ấy, trên đường từ Gyantse đi
Shigatze, thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng, và là “kinh phủ” của các vị Ban-thiền
Lạt-ma (Panchen Lama), chúng tôi ghé thăm một ngôi làng nhỏ. Nói là “một ngôi
làng nhỏ” bởi vì nó là một tập hợp của khoảng một chục ngôi nhà xây dựng rời rạc
hai bên con đường tráng nhựa chạy giữa một dải thung lũng rộng và khô cằn. Ngôi
làng này trông có vẻ khá giả hơn nhiều so với những ngôi làng mà chúng tôi nhìn
thấy trên con đường đi lên hướng đông-bắc của thủ phủ Lhasa. Chamba, anh hướng
dẫn viên trẻ tuổi của chúng tôi, đề nghị chúng tôi vào thăm căn nhà nằm ngay
bên kia đường, đối diện với nơi chúng tôi vừa bước ra khỏi xe. Trời tuy có nắng
vào buổi trưa nhưng gió tháng ba thổi rất lạnh nên chúng tôi ai nấy vội vàng
băng qua đường và lách mình qua chiếc cổng nhỏ chỉ mở hé một cánh để bước vào
bên trong.
Ngôi nhà khá lớn, xây theo kiểu truyền
thống nửa nhà nửa trang trại của vùng Tsang (phía tây Tây Tạng). Nhà có tầng lầu
và tầng trệt, nhưng nhìn từ bên ngoài thì không biết là có hai tầng, bởi vì tầng
trệt không có cửa sổ mà chỉ có một vài lỗ thông gió, và mặt tường bằng đá sơn
trắng xây liền từ dưới lên trên. Chạy ra đón chúng tôi là một cô gái nhỏ trạc độ
14, 15 tuổi. Ngay trước cửa chính dẫn vào nhà, chúng tôi nhìn thấy một con trâu
yack lớn và hai chú trâu nhỏ, chắc vừa mới sinh được vài tuần. Chamba trao đổi
vài ba câu với cô gái, sau đó quay sang mời chúng tôi đi vào bên trong nhà. Bước
qua ngưỡng cửa, mọi người ngạc nhiên một cách thích thú về cấu trúc của ngôi
nhà. Tầng trệt được thiết kế như một gian phòng lớn và sử dụng làm chuồng cho
trâu yack, dê và trừu, đồng thời cũng là nơi chứa rơm vào mùa đông. Tầng này do
không có cửa sổ – ánh sáng duy nhất là từ chiếc cầu thang bằng gỗ ọp ẹp dẫn lên
tầng trên – nên vào mùa đông chắc là ấm hơn nhiều so với bên ngoài. Mùi phân
súc vật khiến vài người trong đoàn hơi khó chịu.
Chúng tôi leo lên tầng trên của ngôi
nhà. Thiết kế của tầng này cũng khá đặc biệt: các gian phòng để ở và sinh hoạt
được xây liền nhau tạo thành một hình vuông lớn khép kín, bao quanh một chiếc
sân lộ thiên cũng vuông vức nằm ở giữa. Một người đàn bà trạc 40 tuổi hơn (thật
ra rất khó đoán tuổi của người Tây Tạng, vì khí hậu cùng với cuộc sống khắc
nghiệt thường làm họ già đi trước tuổi, nhất là phụ nữ) đang đứng ngoài sân
cùng cậu con trai nhỏ khoảng 4, 5 tuổi. Bà tươi cười chào chúng tôi, nhìn chúng
tôi một cách hiền lành nhưng có vẻ xăm xoi, và quay sang nói gì đó với Chamba.
Chắc là bà ta hỏi về xuất xứ và mức độ lương thiện của chúng tôi. Chúng tôi
cũng mỉm cười với bà để bày tỏ thiện cảm. Phía bên kia sân, đối diện với nơi
chúng tôi đứng, có một người đàn ông gương mặt lam lũ nhưng khá trẻ đang ngồi
trên một chiếc ghế thấp, lưng dựa vào tường. Anh ta nhìn chúng tôi như quan
sát, miệng cắn một cọng rơm dài mà anh cầm trên tay. Khi bắt gặp tôi nhìn lại
anh và có ý muốn chụp ảnh, anh ngượng nghịu khoát tay như bảo “đừng chụp!” tuy
không tỏ vẻ gì là khó chịu. Tôi hỏi Chamba người đàn ông trẻ tuổi ấy là ai, có
phải là chủ nhà không, nhưng cũng ngụ ý hỏi rằng anh ta là gì đối với người đàn
bà đang tiếp chuyện chúng tôi.
Và đây là câu chuyện trao đổi giữa tôi
(TC) và người phụ nữ nông dân Tây Tạng ở vùng Tsang (PN), qua nghệ thuật phiên
dịch của anh hướng dẫn viên trẻ tuổi và thật thà (Chamba):
– (TC) – xin phép được
hỏi tên của bà?
– (PN) – (cười)
Tsering.
– (Chamba) – Tsering
có nghĩa là “sống lâu”.
– (TC) – cô bé kia là
con gái của bà?
– (PN) – vâng (cười).
Cô bé có vẻ e thẹn, không
dám nhìn chúng tôi.
– (TC) – ngôi nhà này
là của bà?
– (PN) – vâng, của
tôi… không, đúng ra là của gia đình chồng tôi.
– (TC) – người
đàn ông ngồi đằng kia là chồng bà?
– (PN) – (quay
nhìn người đàn ông trẻ) vâng, anh ấy là chồng thứ ba của tôi.
– Mọi người
trong đoàn nhìn nhau, ngạc nhiên một cách thích thú.
– (TC) – tại sao lại
là “chồng thứ ba”?
– (Chamba) – bởi vì bà
ấy lấy cả ba anh em ruột, trong cùng một nhà.
– Mọi người lại nhìn
nhau.
– (TC) – cả ba anh em
đều là chồng của bà ấy?
– (Chamba) – vâng.
Mọi người bắt đầu xì xào; Những câu hỏi
đủ loại bắt đầu bật ra từ những cái đầu hiếu kỳ và hay nghĩ bậy của một vài người
trong chúng tôi (trong đó có tôi!).
– (TC) – bà lập gia
đình đã lâu chưa?
– (PN) – (suy nghĩ)…
tôi lấy ông anh cả cách đây 17 năm, lúc tôi 20 tuổi; Sau đó một năm tôi lấy người
thứ nhì, em trai của anh ấy.
– (TC) – còn người thứ
ba?
– (PN) – (quay
nhìn người đàn ông trẻ ngồi đang ngồi phía bên kia sân và cười) anh ấy là em
út, tôi lấy anh ấy cách đây 10 năm.
Người đàn ông mỉm cười, có vẻ lúng túng
và xấu hổ; Anh ta đứng dậy và bỏ đi vào nhà.
– (TC) – ông ấy nhiều
tuổi hay ít tuổi hơn bà?
– (PN) – anh ấy nhỏ
hơn tôi 5 tuổi.
– (TC) – còn hai người
kia?
– (PN) – ông anh cả lớn
hơn tôi 3 tuổi, người em kế hơn tôi 1 tuổi.
– (TC) – họ đâu cả rồi?
– (PN) – cả hai đều
đang làm việc ngoài đồng.
– (Chamba) – những người
ở vùng này phần lớn làm nghề nông và sống định canh định cư.
– (TC) – khi nào họ mới
về nhà?
– (PN) – họ thường về
nhà vào lúc chiều tối.
– (TC) – tại sao
ông chồng trẻ nhất của bà lại ở nhà?
Có tiếng ai đó nói đùa “tại vì
anh ta được bà ấy cưng nhất cho nên không bắt phải làm lụng”, và mọi người ồ
lên cười.
– (PN) – hôm nay đến
lượt anh ấy ở nhà. Ba anh em thay phiên nhau, mỗi người ở nhà một ngày để trông
nom vợ con.
– (TC) – bà có phải ra
đồng để làm lụng không?
– (PN) – có chứ, khi
nào công việc nhiều và họ cần đến tôi thì cả bốn vợ chồng đều phải đi ra đồng
làm việc. Nhưng bình thường thì tôi ở nhà vì tôi phải trông 2 đứa con còn nhỏ;
Tôi cũng có rất nhiều việc nhà phải làm.
– (TC) – bà có tất cả mấy đứa
con?
– (PN) – ba đứa. Con
bé này lớn nhất, 14 tuổi (chỉ vào đứa con gái). Thằng nhỏ là em út của nó, mới
5 tuổi.
– (TC) – còn một đứa nữa
ở đâu?
– (PN) – nó là đứa
thứ hai, con trai, 8 tuổi, đi học chưa về.
[Ở Trung Quốc hiện nay, chính sách “một
con” chỉ áp dụng đối với người Hán; Những dân tộc thiểu số, trong đó có người
Tây Tạng, được quyền có nhiều con hơn]
– (TC) – cô con gái lớn
không đi học sao?
– (PN) – hôm nay tôi bắt
nó nghỉ học vì em nó bị bệnh, nó phải ở nhà trông em để tôi làm việc nhà.
– (TC) – việc nhà của
bà là gì?
– (PN) – (cười) nhiều
lắm; Nấu ăn, xay bột lúa mạch để làm bánh tsampa, vắt sữa trâu yack, đánh sữa
làm bơ, đôi khi làm cả pho-mát.
– (TC) – pho-mát làm bằng
sữa trâu yack?
– (Chamba) – pho-mát
làm bằng sữa trâu yack là một món ăn đắt tiền, thường để dành ăn với trà-bơ.
– (TC) – ngon không?
– (Chamba) – ngon hay
không còn tùy người; Riêng tôi thì rất thích.
Người đàn bà nói gì đó với Chamba và đứa
con gái; Cô gái nhỏ đi vào nhà bếp ở gần đấy.
– (Chamba) – lát nữa
đây bà ta muốn mời quý vị dùng thử món pho-mát Tây Tạng làm từ sữa trâu yack.
– (TC) – trong ba người
chồng của bà, bà yêu người nào nhất?
– (PN) – (cười, có vẻ
e thẹn)… người nào cũng tốt và cũng đều làm lụng giỏi.
– (TC) – họ có bao giờ
ghen với nhau không?
– (PN) – không, ba anh
em rất quý nhau; Đôi khi họ cũng có chuyện qua lại, xích mích giữa đàn ông ấy
mà… nhưng ghen thì không.
– (TC) – trong ba người,
bà yêu ai nhất?
– (PN) – (cười)…
– (TC) – bà không muốn
trả lời cũng được.
– (PN) – người nào
cũng thương vợ con. (Nhìn về phía căn phòng nơi người đàn ông trẻ vừa đi vào)
ông chồng thứ ba của tôi rất tốt với tôi; Anh ấy thường ở nhà với tôi nhiều
hơn.
– (TC) – chúng tôi có
thể vào thăm bên trong nhà không ạ?
– (PN) – (vồn vã)
vâng, được chứ, xin mời vào, mời vào…
Chúng tôi và Chamba theo chân người đàn
bà bước vào thăm các gian phòng trong ngôi nhà ở tầng trên. Cô gái nhỏ tay cầm
một chiếc khay lớn bằng nhôm đang từ trong nhà bếp bước ra thì chúng tôi bước
vào. Người mẹ đỡ lấy chiếc khay, chìa ra trước mặt từng người chúng tôi và ân cần
mời mọc.
(Chamba) – bà ấy mời quý vị ăn thử món
pho-mát Tây Tạng, làm từ sữa trâu yack, và làm tại nhà.
Chúng tôi nhìn vào chiếc khay rồi lại
nhìn nhau. Trong khay chất đầy vun lên những khoanh pho-mát nhỏ quăn queo màu
trắng ngà, có vẻ hơi cứng như loại pho-mát gruyère của Pháp, trông rất hấp dẫn.
Nhưng do tôi đã đến thăm Tây Tạng nhiều lần và đã có khá nhiều kinh nghiệm về
“hương vị” của những sản phẩm làm từ sữa và thịt của loài trâu yack, nên tôi
đành lắc đầu từ chối khéo, lấy cớ là bụng yếu, ăn vào sợ có chuyện. Một số người
trong đoàn đưa tay nhón một miếng pho-mát để ăn thử.
Nhà bếp chiếm cả một gian phòng khá rộng,
tối mò mò và nồng nặc mùi mỡ trâu yack. Chúng tôi tìm hiểu cách nấu nướng hay
chế biến một số món ăn chính của người Tây Tạng, xong kéo nhau đi qua “phòng ngủ
chính”. Master bedroom đây rồi! Sở dĩ mọi người chú ý nhiều đến phòng ngủ là bởi
vì chúng tôi đang đi thăm ngôi nhà của một người đàn bà lấy ba chồng!
Phòng ngủ chính là gian phòng lớn nhất
trong ngôi nhà, hình chữ nhật. Bước vào, chúng tôi để ý ngay đến một chiếc tủ với
hoa văn và màu sắc sặc sỡ dựng ở góc phòng dùng làm bàn thờ Phật. Ngay gần cửa
ra vào đặt một máy phát điện loại gia-dụng, made in China. Phần lớn diện tích
tường là cửa sổ kính, kể cả phần vách ngăn với những phòng bên cạnh. Hai chiếc
giường với kích thước dài hơn là rộng được kê hai đầu đâu lại với nhau thành
hình chữ L. Giường không có nệm mà được trải bằng những miếng thảm len rất dày.
Trên giường có mấy tấm chăn bông kiểu Tàu cuộn tròn và nhiều chiếc gối vứt ngổn
ngang. Dưới đất thì đồ đạc lỉnh kỉnh bày la liệt. Người ta đun trà ngay trong
phòng ngủ để làm trà-bơ, đồng thời cũng để sưởi ấm.
– (TC) – những ai ngủ
trong phòng này?
– (PN) – tôi và hai đứa
con trai nhỏ.
– (TC) – cô con gái của
bà ngủ ở đâu?
– (PN) – nó ngủ ở
phòng bên cạnh.
– (TC) – còn mấy ông
chồng của bà?
– (PN) – cũng vậy, họ
ngủ ở phòng bên cạnh với con gái chúng tôi.
– (TC) – cô bé ấy là
con của ông nào?
– (PN) – (cười)… tôi
không biết nữa… nhưng chắc chắn nó không phải là con của người thứ ba.
– (TC) – còn hai đứa
con trai?
– (PN) – (nói như phân
trần) tôi cũng không biết… làm sao mà biết được?
Tôi quay sang Chamba: “Hỏi những câu hỏi
hơi tò mò vào đời tư của họ có sợ làm bà ấy phật lòng không?”, Chamba cười xuề
xòa: “Không sao đâu, quý vị cứ tự nhiên hỏi”.
– (TC) – tôi nghĩ rằng
bà ấy chắc phải biết đứa con nào là của ông chồng nào chứ?
Chamba và người đàn bà trao đổi qua lại
với nhau, trong khi tôi nghe có một người trong đoàn cười khúc khích và bảo:
“ăn chung ở lộn như vậy, nếu là tôi chắc tôi cũng chịu, làm thế nào mà biết đứa
nào là con của ông nào!”
– (Chamba) – bà ấy giải
thích rằng bởi vì cả ba ông chồng đều sinh hoạt thân mật thường xuyên với bà
nên khi có bầu bà không thể biết chắc người nào là cha của cái bầu ấy.
– (TC) – ba đứa nhỏ
xưng hô thế nào với ba ông chồng của bà?
– (PN) – cả ba đứa con
của tôi đều phải gọi ông thứ nhất là “cha”, bởi vì ông là anh cả trong ba anh
em.
– (TC) – thế hai ông
em thì chúng gọi là gì?
– (PN) – là “chú”, cho
dù họ có là cha ruột của chúng đi nữa, bởi vì phong tục là như vậy; Nhưng thật
ra chúng đều xem cả ba người là cha của chúng.
– (Chamba) – và cả ba
ông chồng đều xem chúng là con chung.
Chúng tôi đi sang phòng bên cạnh, cũng
là phòng ngủ. Thực ra người Tây Tạng không có khái niệm “phòng ngủ”, mà đúng ra
nơi họ ngủ, dù lớn hay nhỏ, cũng đồng thời là nơi họ ăn uống và sinh hoạt. Cách
bài trí trong gian phòng này cũng gần giống như “phòng ngủ chính” mà chúng tôi
vừa thăm; Cũng có hai chiếc giường dài kê đâu đầu lại với nhau, với đồ đạc lỉnh
kỉnh vứt la liệt khắp nơi, chỉ khác là không có cái bàn thờ tô vẽ lòe loẹt.
Chúng tôi đi sang phòng kế tiếp, phòng
này có vẻ sáng sủa hơn vì tường sơn màu vàng. Cũng lại là phòng vừa làm chỗ ngủ
vừa làm chỗ sinh hoạt. Bước vào, chúng tôi nhìn thấy người đàn ông trẻ – ông chồng
thứ ba của bà Tsering, bà “sống lâu để… hưởng!” – đang ngồi ở một mép giường.
Anh ta đứng bật dậy, gãi đầu và mỉm cười với chúng tôi, vẻ lúng túng. Chamba
nói gì đó với anh, hình như là chào hỏi. Anh trả lời Chamba, xong quay sang nói
chuyện với người đàn bà.
– (Chamba) – ông ấy hỏi
quý vị từ đâu đến, và ngạc nhiên là tại sao người Mỹ mà lại không phải là người
da trắng.
– (TC) – chắc ông ấy
không biết là có cả người Mỹ gốc Tây Tạng!
Có lẽ cảm thấy không được thoải mái khi
bị chúng tôi đổ dồn hết những cái nhìn hiếu kỳ vào mình, ông chồng trẻ của người
đàn bà bỏ đi ra ngoài. Thằng bé con trai bà cũng chạy theo “chú” nó.
– (TC) – tại sao bà lại
lấy cả ba anh em? Ai quyết định điều ấy?
– (PN) – anh em họ quyết
định.
– (TC) – bà có bị ép
buộc không?
– (PN) – (đỏ mặt, cười)
tôi cũng bằng lòng.
– (Chamba) – phong tục
không cưỡng bức người phụ nữ phải lấy nhiều chồng. Luật pháp của Trung Quốc cấm
tình trạng đa thê hay đa phu, nhưng trên thực tế ở Tây Tạng không ai ngăn cản cả
bốn người họ chung sống với nhau.
– (TC) – tại sao cả ba
anh em lại muốn lấy một mình bà?
– (PN) – họ muốn bảo vệ
điền sản và cả tài sản do cha mẹ để lại.
– (Chamba) – họ không
muốn phải chia nhỏ những thứ ấy ra. Giữ chung đất đai và tài sản thì dễ sinh lợi
hơn.
– (TC) – và cưới chung
một bà vợ thì thú hơn! Tôi nói đùa, anh làm ơn đừng dịch lại. Nhưng ai làm chủ
tài sản ấy?
– (PN) – ông anh cả là
người đứng tên đất đai và mọi thứ tài sản. Nhưng tất cả mọi thứ đều thuộc về tất
cả mọi người.
– (TC) – đất đai có thật
sự thuộc về quý vị không?
– (Chamba) – ruộng đất
thừa kế từ ông bà cha mẹ thì người ta có quyền đứng tên, dù rằng trên nguyên tắc
đất đai thuộc sở hữu của Nhà Nước. Ở Tây Tạng người thì ít đất đai thì quá nhiều,
cho nên sở hữu ruộng đất không quan trọng bằng khả năng khai thác chúng.
– (TC) – tài sản của
gia đình bà gồm có những gì?
– (PN) – ngôi nhà này,
những máy móc và vật dụng
trong nhà và đàn gia súc.
– (TC) – có tiền mặt
không?
– (PN) – (cười) có chứ.
– (TC) – ai là người
giữ tiền?
– (PN) – ông chồng thứ
nhất của tôi.
– (TC) – bà có giữ tiền
không?
– (PN) – (cười)… cũng
có… nhưng không nhiều.
– (TC) – có bao giờ xẩy
ra xích mích giữa ba anh em vì tài sản hay tiền bạc không?
– (PN) – thỉnh thoảng
cũng có xích mích, tôi không rõ là chuyện gì… nhưng nói chung ba ông chồng của
tôi rất quý nhau, họ là anh em ruột thịt mà!
– (TC) – bà có dành ưu
tiên cho người nào được vào ngủ trong phòng của bà không?
– (PN) – (đỏ mặt, cười)
ai muốn vào với tôi cũng được, nhà của chung mà.
– (TC) – họ có bao giờ
xích mích vì dành nhau chuyện ấy không?
– (PN) – không,
lúc nào hai ông em cũng nhường nhịn ông anh cả.
– (TC) – xin lỗi bà,
có bao giờ mấy ông chồng dùng vũ lực với bà không?
– (PN) – không, không
bao giờ.
– (TC) – bà yêu người
nào nhất?
– (PN) – (cười) người
nào cũng đối xử tốt với tôi… ông thứ ba quý mến tôi nhiều nhất.
Câu chuyện trao đổi giữa tôi và người
đàn bà nông dân Tây Tạng ở vùng Tsang hình như kết thúc ở đấy… Wow! Tôi thật
cũng không ngờ rằng nội dung câu chuyện lại cởi mở và có thể đi sâu vào những vấn
đề riêng tư một cách thoải mái như vậy.
Đoàn chúng tôi từ giã người đàn bà đa
phu, ông chồng thứ ba, hai đứa con và ngôi nhà khang trang của họ để tiếp tục
hành trình đi Shigatze. Và đó là một trong những kỷ niệm lý thú và khó quên
trong chuyến du lịch thăm Tây Tạng của chúng tôi vào mùa xuân năm ấy./-
Mar 15, 2004
Trần Chính
No comments:
Post a Comment