![]() |
Chị NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT. |
TẢN MẠN QUÊ HƯƠNG VÀ TUỔI THƠ
Ai cũng
có quê hương và tuổi thơ, nhưng mỗi người ở
một hoàn cảnh khác nhau. Người sống ở xứ yên bình thì cuộc đời của họ cũng bình yên. Lớn lên lo
học hành để vào những trường tốt, ra đi làm, lập gia đình...Còn chúng ta, những
người Việt Nam, cuộc đời không ai là không lên thác xuống gềnh, nổi trôi theo vận
mệnh đất nước! Nhất là những ai
đã có tuổi đời cao lại càng có nhiều giai đoạn đã trải qua,
vui có, buồn có, khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Nhưng rồi mọi việc cũng trôi đi
theo bước thời gian. Khi gần đến cuối đời nhìn lại mới thấy thấm thía cho kiếp
nhân sinh.
Thời
xưa, ông bà ta sinh ra và lớn lên chỉ quanh quẩn bên lũy tre làng. Nhà cửa ông
cha để lại cứ sống hết đời này qua đời
khác, mồ mả gia tộc cũng gần nhà. Do vậy tình cảm gắng bó với quê hương, làng
xóm thật là sâu đậm, biết an phận, ít có nỗi buồn ly hương, xa những gì thân
yêu như thời đại chúng ta bây giờ.
Như sau
ngày chia đôi đất nước năm 19nh, nhiều người miền Bắc đành bỏ lại quê hương vào
Nam để tạo lập cuộc sống mới. Họ vừa bén
rễ đơm hoa với quê hương mới thì thêm một lần tan nát ra đi! Cũng như những người
Miền Nam phải lìa bỏ quê hương, bỏ lại sau lưng những gì họ đã dày công xây dựng bao đời, ai mà không tan
nát cõi lòng. Thương cho người đi buồn cho kẻ ở .
Ở VN dù
đi làm ăn ở đâu xa cũng có một nơi chốn để quay về trong ba ngày Tết. Còn ở xứ
người cuộc sống chẳng khác nào dân du mục, nay ở tiểu bang này mai dời đi tiểu
bang khác, nay thuê nhà này mai mua nhà nọ chẳng có gì để ràng buộc
ta. Không biết người khác thì sao,
chứ riêng bản thân tôi mỗi lần thay đổi chỗ ở là một lần tim tôi héo đi một ít. Có
lẽ vì tính tôi ưa hoài cổ chăng!
Ngược
dòng thời gian lui về quá khứ, nhớ lại tuổi thơ của mình không biết mình có phước
hay bất hạnh.
Sinh ra và lớn lên suốt thời gian dài đất
nước chiến tranh, bất hạnh vì chiến tranh vì thiếu thốn... nhưng
trong cái bất hạnh đó ta thấy cuộc đời có nhiều ý nghĩa, ai cũng trưởng
thành trong cái khốn khó đó. Còn bây giờ
cuộc sống tiện nghi đầy đủ quá thấy có phần tẻ nhạt . Ai đó đã nói ‘ “Bất hạnh của
cuộc đời là không còn gì để ao ước chứ không phải là ao ước mà không có”.
Quê tôi có Núi Nhạn, chứng
tích một thời của Vương quốc Chiêm Thành, có sông Đà Rằng với cây cầu dài hơn một
cây số, dù ai xuôi Nam ngược Bắc cũng phải đi qua cây cầu này, có đồng ruộng
mênh mông, dân tình hiền hòa, hiếu khách ,hiếu học. Phú yên không giàu có, kiêu
sa như những nơi khác, nhưng đi đâu rồi cũng nhớ về những con người thật thà
chân chất ở nơi đây, người phương khác nếu đã sống và làm việc qua ở Tuy
Hòa sẽ không quên những ân tình mà người
Phú Yên đã dành cho họ.
Quê ngoại ở Phan thiết , khi sinh con đầu lòng các cụ xưa thường
hay về nhà mẹ để sinh nên tôi sinh ra ở Phan thiết. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp quê nội
và ngoại tôi bị chia cắt bỡi ĐÈO CẢ . Liên khu 5 (gồm :Nam,Ngãi,Bình,Phú) từ Đèo Cả trở ra Việt
Minh gọi là “vùng giải phóng” từ Đèo Cả trở vào họ gọi là “vùng bị chiếm”. Vì sống ở “vùng giải phóng” cho nên tôi có một
tuổi thơ khác với tuổi thơ của con nhà
bình thường của “vùng bị chiếm”. Còn
nhớ năm tôi học lớp 4 (lớp nhì) chưa đến
10 tuổi vậy mà tôi phải cùng với các học sinh trong trường đi đào hầm núp máy bay, chẳng những cho cá nhân mình
ở trường mà còn đào hầm công cộng bên đường lỡ có gặp máy bay của Pháp ra bắn
phá thì có hầm mà trốn . Trường còn chia
cho học sinh mỗi đứa ít mét vuông đất để trồng khoai lang, khoai mì , bắp...
Các thầy còn treo giải thi đua bắt chuột ( bắt được cắt đuôi xỏ xâu) đem tới
trường báo cáo với thầy.
Tôi là
con gái, gia đình lại cưng nên cấm cản đủ
thứ . Nhưng cứ mỗi sáng tinh mơ chưa ai
thức dậy tôi lén ra đồng bắt chuộc, mang
theo cái cuốc và cái giỏ có nắp đậy. Tôi rành lắm, nhìn cách ụn đất ở trước hang là tôi biết
hang nào là hang chuột , hang nào là hang cua., nên vừa bắt chuột vừa bắt cua.
Chiều lại tôi đem lờ đi để các bờ ruộng để
bắt cá, đặt ống trúm để bắt lương , đến sáng là thu hoạch. Cho nên trong
nhà lúc nào cũng có lươn, cá , cua đồng.
Bây giờ nhớ lại sao hồi nhỏ mình giỏi đến thế . Trong khi cháu tôi bây giờ ở tuổi này chẳng biết làm gì. Đúng là
“ thời thế tạo anh hùng”. Thủa ấy con nít chẳng có thú vui nào ngoài đánh bi,
đánh đáo, nhảy dây. Hai chị em chơi với nhau nhưng thằng em tôi nó rất “gian
hùng” hễ ăn thì thôi mà thua thì nó xí huề bỏ chạy. Tôi rượt theo túm cổ nó hai
đứa caĩ nhau, gặp lúc má tôi ngủ trưa nghe ồn, không biết ai phải ai quấy bà
kêu hai đứa nằm dài đánh đòn.
Chúng tôi vui cái vui hồn nhiên của chốn
đồng quê…
Rồi những ngày đầu năm 1954 chiến dịch
ATLANTE Quân đội Quốc gia đổ bộ ra Tuy Hoà. Ban đầu họ
đóng quân khoanh vùng, xã tôi còn thuộc Việt minh kiểm soát (trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, Ba tôi đi theo kháng chiến chống Pháp nên chúng tôi ở nhà với
má nhiều hơn). Má tôi tìm cách đưa gia đình trốn thoát vô Nha Trang. Sau khi về
sum hợp với gia đình bên ngoại thì ít tháng sau hiệp định Genève ký kết chia
đôi đất nước. Thời gian này người Bắc thì di cư vào Nam, cán bộ Việt minh thì tập kết ra Bắc.
Mọi việc tạm ổn má tôi đưa tôi đi Sài
gòn cho biết luôn tiện thăm bà con bạn bè ngày trước. Sau bao nhiêu năm sống ở quê nội trong
vùng Việt minh nhà cữa bị ‘”tiêu thổ kháng chiến” không còn gì, khi vô Phan thiết
thấy nhà cữa sang trọng cảm thấy lạ lẫm vô cùng. Như nhà ngọai tôi trên
đường Huyền Trân Công chúa từ tòa tĩnh đến
biển Thương Chánh cả một con đường dài toàn là biệt thự (Villa )cất theo lối kiến
trúc thời Pháp; nhà ông bà ngoại tôi cũng vậy cả một biệt thự rộng lớn, trước
sân có nhiều cây kiểng, xung quanh có tường rào bao bọc. … Nhưng đến khi vào đến
Sài gòn tôi thật ngỡ ngàng, thành phố rộng lớn, sầm uất, nhiều nhà
cao tầng, người người sang trọng. Hồi đó còn mang âm hưởng của một thời thuộc đia, với những
con đường mang tên: Catinat, Galile, Quai de Belgique… khu thương mại
Charner… Tôi được bà bạn thân của má
tôi cho tiền, con bà dẫn tôi đi cine, từ xứ quê mùa đến lần đầu được đi xem phim tôi thích quá! Khi ra khỏi rạp
chiếu bóng thấy hai bà đầm Pháp gặp nhau mừng ôm nhau hôn, tôi thấy lạ quá về
nhà tôi nói với má: “má ơi con thấy hai bà đầm gặp nhau quẹt quẹt cái mỏ.” Cả nhà ai
cũng cười câu nói ngây thơ của tôi. Tôi
thấy đa số phụ nữ đầu kẹp tóc hơi phồng hai bên, tóc bới thả lỏng sau gáy, áo
dài không chít eo, thanh niên thiếu nữ thời này nhiều người biết đờn Mandoline. Tôi có bà mợ đờn Mandoline rất hay ( sau này khi tôi trọ học ở
nhà cậu mợ, bà có chỉ cho tôi học đờn, tôi chỉ đờn độc nhất có một bài “Con thuyền
không bến’” của Đặng Thế Phong, rồi sau
đó trả hết lại cho thầy). Người nào trông cũng giản
dị, hiền hòa. Những hình ảnh này còn mãi trong tôi, cho nên
sau này tôi thích đọc chuyện và xem phim của cụ HỒ BIỂU CHÁNH, dĩ vãng như sống lại trong tôi những
ký ức về tuổi thơ. Chuyện của Hồ Biểu Chánh thường quay quanh những đại điền chủ, những ông Hội
đồng có xe hơi, xe ngựa, nhà cữa sang trọng,
gia nhân đông đảo… hoặc thiện hoặc ác,
bên cạnh những mảnh đời lam lũ bấc hạnh… vẻ lại bức tranh của một thời thuộc đia nhưng chuyện nào cũng có hậu. Đọc chuyện của Hồ Biểu Chánh tôi bắt gặp đâu
đó bóng dáng của gia đình tôi trước năm 1945 .
Sau khi chia đôi đất nước tình hình đã ổn định,
chúng tôi trở về lại Tuy hòa. Nhà
tôi ở thôn quê nên phải ra thành phố trọ
học, dạo đó thành phố Tuy hòa còn rất đơn sơ, sau 9
năm “tiêu thổ kháng chiến” chỉ còn lại tiêu điều. Từ trường Bồ Đề, bây giờ đi
xuống toàn là nghĩa địa, ,
ngày nào cũng thấy cờ phướng cúng vong để hốt cốt. Hồi đó tôi đang trọ học ở
nhà bác Hương Bộ Nhành. Bác có 3 người con đang ở
với bác là anh Châu, Liêm và Lý, còn có thêm
mấy cậu từ TuyAn vào trọ học. Nghe đồn hằng đêm có ma hiện ra nơi nghĩa địa. Bọn trẻ chúng tôi tuy sợ ma nhưng tò mò nên rủ
nhau đi coi ma. Chúng tôi 6 đứa đi trên 3 chiếc xe đạp. Phần tôi nghĩ bụng mình đi trước có đằng
sau hộ tống chắc ăn, ma chỉ theo đằng sau . Liêm chở tôi cứ đạp xe tiến tới , đến khi quay đầu nhìn lại
thì ôi thôi hai xe sau đã bỏ mình quay đầu
lại lúc nào không biết. Vừa quay đầu xe vừa té vì lính quýnh.
Trường
Nguyễn Huệ cũ chung quanh cũng là nghĩa địa, bàn chải,
xương rồng mọc um tùm. Những năm này cư dân
ở đây đa số là người ở thành phố lâu năm. Những năm sau này mất an ninh nên nhiều gia đình khá giả ở nông thôn đến thành phố sinh sống nhiều nên việc trọ học cũng có phần
khó khăn. Nhất là hồi đó cả tĩnh Phú yên
chỉ có một trường trung học công lập Nguyễn Huệ, sau này mới có thêm trường
Bồ Đề và các trương trung học tư thục khác..
Hiệu
trưởng đầu tiên của trường Nguyễn Huệ là thầy Đinh Thành Bài. Các giáo sư chỉ có một số ít thầy, đa số là
người Huế như thầy Nguyễn Thúc Tâm, thầy Hàng
Huy Quang dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Ngọc Nhâm dạy Anh văn, thầy Trương Đống
dạy Việt văn, thầy Chút, thầy Thắng, thầy Tri dạy các môn vạn vật, sử địa ,
công dân giáo dục....Năm đó thầy Trương Đống ra Tuy an hay Sông Cầu gì đó để canh thùng phiếu bầu cử thì bị mất
tích luôn. Con gái của thầy là Trương thị Bích Cầu cũng học cùng lớp B2 với
chúng tôi, anh Hàng Phi Hạc con thầy Quang cũng cùng lớp. Lớp B2 của chúng tôi
có Phạm thị Lĩnh hiện ở Pháp ,Kim Dung (Úc) Bích Cầu (Mỹ) Nguyễn thị Ngọc (Mỹ)
Lê thị Diệu (VN) đã qua đời, Xuân Lan (Mỹ_ người hay ăn hiếp tôi), chị Hạnh Phước
cũng đã qua đời, nam giới thì tôi chỉ nhớ
có ít người như Lê long Thành,(Mỹ ), anh
bác sĩ Bách
(Mỹ), Võ duy Dương sau này vào Võ Bị Đà
Lạt. Trong số bạn bè ngày xưa qua Mỹ tôi được gặp lại anh Vũ Hữu Bàng cháu thầy hiệu trưởng trường Nguyễn Huệ ( sau
thầy Đinh Thành Bài) thầy Vũ Tri Phú, anh Trịnh Kháng. Anh Bàng là sĩ quan
Không Quân. Anh Kháng sau khi tốt nhiệp Đại học Sư phạm ra đi dạy rồi bị động
viên nhập ngũ. Hai anh đều là sĩ quan nên có thời te tua trong các trại tù CS.
Chị Hạnh Phước theo chồng đi diện HO đến
Mỹ chỉ ít năm thì cũng từ giả bạn bè ra đi sau một cơn bạo bịnh. Cũng may anh Bàng, anh Kháng, Chị Hạnh
Phước cùng ở California nên thỉnh thoảng chúng tôi có dịp liên lạc và gặp
nhau.. Nhắc lại chuyện xưa mới biết kẻ còn người mất. Mới đây tôi nghe tin cùng
lớp chúng tôi có Lê Văn Sý làm quận trưởng một quận nào đó ở Miền Tây ngay sau
ngày 30.4.1975 VC vào tận nhà bắn chết anh.
Trong số bạn bè còn nhiều người nữa đã vĩnh viển ra đi!
Trong những năm
ở đệ nhất cấp này tôi với Nguyễn Thị Ngọc có nhiều kỷ niệm khó quên mà
bây giờ mỗi khi nói chuyện với nhau qua điện thoại nhắc lại chuyện xưa hai đứa
cười thoải mái.
Vào thời
đó ở Tuy Hòa học sinh quen với cuộc sống của 9 năm kháng chiến nên khi vào
trung học nữ sinh ít hoặc không mặc áo dài. Các giáo sư người Huế cứ khuyến
khích chúng tôi mặc áo dài đi học nhưng vì ngượng nên chúng tôi không mặc. Rồi
một hôm đẹp trời, Ngọc lượm được cái áo dài
bông của bà chị còn tôi lượm được cái áo dài xanh của bà dì út, hai đứa
bàn nhau hôm nay đi học mình mặc áo dài. Ngoài mặc áo dài nhưng bên trong mặc
cái áo chemise dày cộm(chưa biết mặc bra) chẳng may hôm ấy đi trễ, gần đến trường
nghe tiếng kẻng vào lớp, hai đứa đưa tay”bực bực” cỡi áo dài ra nhét vào cặp.
Thời
niên thiếu của chúng tôi vô tư và quê
mùa như vậy! Cũng may chúng tôi ai cũng ham học, không biết đua đòi mặc dù học
hành thi cử khó khăn nhưng chúng tôi cũng gắng vượt qua, chúng tôi được hấp thụ một nền giáo dục tốt, những giờ công dân giáo
dục dạy chúng ta nên người biết kính trên nhường dưới, kính thầy thương bạn, sống
có nhân cách có đạo đức... cho nên phải nói những thế hệ này đã làm
nên một Miền Nam không thiếu người tài đức.
Ngọc
thông minh ,học giỏi nên đường quan lộ
thuận buồm xuôi gió. Sau này Ngọc tốt nhiệp
Cao học Quốc gia Hành chánh, chẳng những công danh suông sẻ mà còn “tuổi
trẻ tài cao “ đã lên đến chức bà cố từ lâu!
Nhà tôi
cách thị xã Tuy hòa 10 km về hướng nam hồi đó chưa có cây cầu mới xe hơi và xe
lửa chạy chung trên cầu Đà Rằng, nên tôi không dám đạp xe qua cầu. Thủa ấy chưa có xe
lambretta, chỉ có xe ngựa nhưng chỉ chạy
từ Bàn Thạch ra đến Phú lâm. Nhà tương đối gần quốc lộ 1 nên có thể đón xe đò từ Nha Trang ra. Thời
nay có xe gắn máy thì coi như quá gần, vậy mà cứ mỗi cuối tuần về nhà là tôi thấy nó ấm áp làm sao! Đến nỗi chiều chúa nhật phải ra thành phố sớm
một chút mới dễ đón xe vậy mà tôi cứ nấn
ná ở lại, tiếc từng giây từng phút. Có hôm ra quốc lộ trễ không còn xe mà muốn
khóc; cũng may thỉnh thoảng có xe Lục lộ chở cát , đá từ đâu đó chạy ra thành
phố tôi phải đón xin quá giang họ cũng chở giùm.
Sau này
lớn hơn một chút thỉnh thoảng cuối tuần tôi đạp xe về nhà. Có những buổi chiều
đi ngang qua cánh đông từ Phú lâm về Đông Mỹ,
hai bên đường ruộng lúa mênh mông, mạ non xanh ngát, không một bóng người, gió mát hiu
hiu, xa xa
thấy đàn cò đang bay lại, vừa đạp xe vừa thả hồn theo các nhân vật và quang cảnh
của các tác phẩm trong Tự Lực Văn đoàn...thấy quê hương mình thanh bình và đẹp
làm sao ! Tuổi trẻ với nhiều hoài bảo, tôi mơ một
mai lớn lên làm gì đó có ích cho quê hương đất nước. (tuy còn nhỏ nhưng tôi đã ý thức được thời cuộc, có thể
quá sớm đối với lứa tuổi của tôi) Tôi mơ làm bà Trưng, bà Triệu.
muốn đội đá vá trời; nhưng rồi tỉnh cơn mơ nhìn lại thấy mình là con nít quê mùa dốt
nát, nên Bà Trưng, bà Triệu tiếp tục lộc cộc đạp xe về nhà.
Tôi rất thích
thơ và nhạc tiền chiến. Gần như các bài thơ tôi đều thuộc, có những bài chỉ đọc vài ba
lần là tôi thuộc (bây giờ đọc trăm lần cũng không nhớ!). Dạo đó ở Miền Nam cũng
có đăng những bài của miền Bắc như Nhân Văn Giai phẩm tôi đều đọc hết, biết đến
Hữu Loan, Quang Dũng, Văn Cao … một thời mê Màu tím hoa sim, Nhà
tôi, Đôi mắt người Sơn Tây….
Tôi là
chị cả trong gia đình, các em còn rất nhỏ, nên mỗi tuần về nhà là tôi lôi ra
bao nhiêu việc để làm, quét dọn từ trong nhà ra đến ngoài ngõ, vườn nhà tôi rộng,
cây trái đủ loại,
nào chuối, đu đủ , saboche, xoài, chùm
ruột, khế ngọt khế chua gì cũng có, ổi ,me, trâm, dừa, mít....Chim ăn trên cây mà
chẳng ai quan tâm đến, mỗi khi về nhà là tôi leo trèo hết cây này đến cây khác..
Tuy hòa
vào cuối thập niên 50 chưa mở đệ nhị cấp nên chúng tôi phải vào NhaTrang học tiếp
để thi tú tài, lại thêm một lần phải xa quê.
Lần này xa hơn nên có khi mấy tháng mới về nhà một lần. Tôi ở trọ nhà
ông cậu ở đường Yersin.
Bạn từ
Nguyễn Huệ với tôi có Hoài Ân, hai đứa rủ nhau
nhảy lớp bỏ đệ tam học đệ nhị, Ân cũng cùng ở chung với tôi.
Nhatrang những năm này rất êm đềm nhiều
cảnh đẹp thiên nhiên, những ngày cuối tuần chúng tôi thường ra biển hóng mát ,nhìn trời mây mơ mộng, đạp xe xuống Cầu đá viếng Hải học Viện, ra Hòn
chồng..
Những
năm này ở Nha Trang ngoài trường Võ Tánh ra còn có nhiều trường trung học tư thục
có đệ nhị cấp cũng nổi tiếng như trường bán công Lê Qúi Đôn, Tương lai, Văn
Hóa, Kim yến... cho nên đa số học sinh
các tĩnh như Ninh Thuận ,Phú yên đều đến
đây học.
Năm đầu Hoài Ân với tôi cùng học ở Kim Yến; ở
đây thầy Trương văn Như làm hiệu trưởng. Thầy có cô con gái chị Nguyệt Thu rất
đẹp chị cũng học cùng lớp với chúng tôi. Nhà thơ Quách Tấn dạy cổ văn,thầy Nguyễn
công Kiểm từ Võ Tánh ra dạy Tân vân. Năm
đó hai chúng tôi đều rớt tú tài 1; năm sau chúng tôi nhảy qua bán công Lê quí
Đôn. Ở đây thầy Cung Gĩu Nguyên làm hiệu trưởng dạy Pháp văn. Thầy Bùi Đặng Hà Đà dạy Anh văn. Nhà văn Thạch Trung Gỉa
dạy Việt văn. Thầy Phương dạy toán. Thầy Tần dạy sử địa rất hay. Thầy giảng mạch
lạc, ghi dàn bài lên bảng đen đến khi thầy giảng xong là chúng tôi còn nhớ rõ
khỏi cần học bài.
Nữ sinh
trong lớp này cô nào cũng xinh và hiền
lành; nào Thanh Vân, Hoài Nam, Như khuê, Tuyết Hồng, chi Huỳnh Kim Lượng, Lý,
hai chị em Chị Hồng Và Hường cũng từ
Phan Rang ra Nha Trang học , và còn nhiều bạn nữa... đa số các bạn nữ nhiều người giỏi văn. Hoài Nam
là chị của nhà văn Hoài Bắc,
các bạn trong lớp ai cũng hiền lành không có tính ranh mảnh nên dễ kết
thân với nhau. Trong lớp cũng có một anh giỏi văn anh Trần Ngọc Cơ người Phan
Rí, sau khi đậu tú tài anh vào trường Bộ
Binh Thủ Đức khóa 13.. Những người bạn năm xưa giờ trôi dạt bốn phương , chắng biết ai còn ai mất. Hoài Ân người bạn cố tri từ TUY Hòa vào Nhatrang học cùng nhiều năm gắn bó
với nhau giờ cũng đã từ bỏ cõi đời!
Thi cử
thời này rất khó ,tỷ lệ đậu rất ít. Thường trung tâm thi ở trường Võ Tánh, thí
sinh từ các tĩnh như : Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Ngồi theo vần A B C, nam nữ ngồi chung một bàn chỉ từ 2 đến 3 người,nào
là giám thị phòng thi
rồi giám thị hành lang quần qua quần lại để bắt thí sinh gian lận! Nên
chúng tôi chỉ biết cắm đầu vào việc học hành,
ai cũng biết giữ mình, sợ tai tiếng, không dám yêu đương sớm nên bỏ qua
nhiều cơ hội...
Rồi 30
tháng 4 năm 1975 ập đến, mọi việc đều
thay đổi tận gốc rễ, ai cũng tất bật với cuộc sống, với thương đau.
Thiết nghĩ trong lịch sử VN chưa có thế hệ nào đau thương và bi hùng như thế hệ chúng tôi, trưởng thành trong bom
đạn, nhưng vẫn vượt qua vẫn vươn lên vậy mà sau khi ngưng tiếng súng đáng lẽ phải
được hưởng thanh bình ấm no lại phải chịu
đựng bao đắng cay khổ nhục. Biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang ở tuổi xuân thì phải chia ly,
con cái bơ vơ. Kẻ ra đi bỏ thân nơi rừng sâu
biển cả, người ở lại nhục nhằn đau thương. Ôi nói sao
cho hết!
Lần này tôi mất quê hương, một quê hương lớn hơn đó là QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM để đi tìm tự do, đến một nơi vô định, đơn độc
nơi xứ người, nhớ nhà nhớ quê quay quắt. Cứ mỗi lần nhìn trên TV thấy bờ tre, bụi
chuối là khóe mắt cay cay. Đến nỗi có lần nằm mộng thấy mình về VN bị Công an bắt hỏi tôi tại sao bỏ
nước ra đi tôi dõng dạc trả lời” tôi
đi tìm tự do vì ở đây không có tự
do”, rồi lo buồn hối hận về làm chi, đến khi tỉnh giấc thấy mình còn nằm trên
giường , mừng ơi là mừng! Thì ra có thể
đẩy người ta ra khỏi quê hương chứ không thể đẩy quê hương ra khỏi trái tim mỗi
người.
Từ thù địch, phản động, hôm nay trở thành khúc ruột ngàn dặm nên bây giờ giữa VN và các nước đi lại dễ dàng thì tình cảm
đó không còn đậm đà như xưa!
Cảnh cũ
đã không còn
Người
xưa cũng ra đi!
Phải
chăng chúng ta là những chàng Từ Thức của ngày nay.
NGUYỄN BẠCH
TUYẾT
(Những ngày trốn covy)
No comments:
Post a Comment