Wednesday, July 14, 2021

TẢN MẠN QUÊ HƯƠNG VÀ TUỔI THƠ (NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT)

 

Chị NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT.



TẢN MẠN QUÊ HƯƠNG VÀ TUỔI THƠ

 

Ai cũng có quê hương và tuổi thơ, nhưng mỗi người ở  một hoàn cảnh khác nhau. Người sống ở xứ yên bình  thì cuộc đời của họ cũng bình yên. Lớn lên lo học hành để vào những trường tốt, ra đi làm, lập gia đình...Còn chúng ta, những người Việt Nam, cuộc đời không ai là không lên thác xuống gềnh, nổi trôi theo vận mệnh đất nước!  Nhất là những ai đã có tuổi đời cao lại càng có nhiều giai đoạn đã trải qua, vui có, buồn có, khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Nhưng rồi mọi việc cũng trôi đi theo bước thời gian. Khi gần đến cuối đời nhìn lại mới thấy thấm thía cho kiếp nhân  sinh.

 

Thời xưa, ông bà ta sinh ra và lớn lên chỉ quanh quẩn bên lũy tre làng. Nhà cửa ông cha để lại cứ sống hết đời  này qua đời khác, mồ mả gia tộc cũng gần nhà. Do vậy tình cảm gắng bó với quê hương, làng xóm thật là sâu đậm, biết an phận, ít có nỗi buồn ly hương, xa những gì thân yêu như thời đại chúng ta bây giờ.  

 

Như sau ngày chia đôi đất nước năm 19nh, nhiều người miền Bắc đành bỏ lại quê hương vào Nam  để tạo lập cuộc sống mới. Họ vừa bén rễ đơm hoa với quê hương mới thì thêm một lần tan nát ra đi! Cũng như những người Miền Nam phải lìa bỏ quê hương, bỏ lại sau lưng những gì họ đã  dày công xây dựng bao đời, ai mà không tan nát cõi lòng. Thương cho người đi buồn cho kẻ ở . 

 

Ở VN dù đi làm ăn ở đâu xa cũng có một nơi chốn để quay về trong ba ngày Tết. Còn ở xứ người cuộc sống chẳng khác nào dân du mục, nay ở tiểu bang này mai dời đi tiểu bang khác, nay thuê nhà này mai mua nhà nọ chẳng có gì  để ràng buộc  ta. Không biết người khác thì sao,  chứ riêng bản thân tôi mỗi lần thay đổi chỗ ở là một lần tim tôi héo đi một ít. Có lẽ vì tính tôi ưa hoài cổ chăng! 

 

Ngược dòng thời gian lui về quá khứ, nhớ lại tuổi thơ của mình không biết mình có phước hay bất hạnh. Sinh ra và lớn lên suốt  thời gian dài đất nước chiến tranh, bất hạnh vì chiến tranh vì thiếu thốn... nhưng trong cái bất hạnh đó ta thấy cuộc đời có nhiều ý nghĩa, ai cũng trưởng thành trong cái khốn  khó đó. Còn bây giờ cuộc sống tiện nghi đầy đủ quá thấy có phần tẻ nhạt . Ai đó đã nói ‘ “Bất hạnh của cuộc đời là không còn gì để ao ước chứ không phải là ao ước mà không có”.

 

Quê tôi có Núi Nhạn, chứng tích một thời của Vương quốc Chiêm Thành, có sông Đà Rằng với cây cầu dài hơn một cây số, dù ai xuôi Nam ngược Bắc cũng phải đi qua cây cầu này, có đồng ruộng mênh mông, dân tình hiền hòa, hiếu khách ,hiếu học. Phú yên không giàu có, kiêu sa như những nơi khác, nhưng đi đâu rồi cũng nhớ về những con người thật thà chân chất ở nơi đây, người phương khác nếu đã sống và làm vic qua ở Tuy Hòa sẽ không quên những ân tình mà người  Phú Yên đã dành cho họ.

Quê ngoại ở Phan  thiết , khi sinh con đầu lòng các cụ xưa thường hay về nhà mẹ để sinh nên tôi sinh ra ở Phan thiết.   Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp quê nội và ngoại tôi bị chia cắt bỡi ĐÈO CẢ . Liên khu 5  (gồm :Nam,Ngãi,Bình,Phú) từ Đèo Cả trở ra Việt Minh gọi là “vùng giải phóng” từ Đèo Cả trở vào họ gọi là “vùng bị chiếm”.  Vì sống ở “vùng giải phóng” cho nên tôi có một tuổi thơ  khác với tuổi thơ của con nhà bình thường của “vùng bị chiếm”.    Còn nhớ năm tôi học lớp 4 (lớp nhì)  chưa đến 10 tuổi vậy mà tôi phải cùng với các học sinh trong trường đi đào  hầm núp máy bay, chẳng những cho cá nhân mình ở trường mà còn đào hầm công cộng bên đường lỡ có gặp máy bay của Pháp ra bắn phá thì có  hầm mà trốn . Trường còn chia cho học sinh mỗi đứa ít mét vuông đất để trồng khoai lang, khoai mì , bắp... Các thầy còn treo giải thi đua bắt chuột ( bắt được cắt đuôi xỏ xâu) đem tới trường báo cáo với thầy. 

Tôi là con gái,  gia đình lại cưng nên cấm cản đủ thứ . Nhưng cứ mỗi sáng tinh mơ  chưa ai thức dậy tôi lén ra đồng bắt chuộc, mang  theo cái cuốc và cái giỏ có nắp đậy. Tôi rành  lắm, nhìn cách ụn đất ở trước hang là tôi biết hang nào là hang chuột , hang nào là hang cua., nên vừa bắt chuột vừa bắt cua. Chiều  lại tôi đem lờ đi để các  bờ ruộng để  bắt cá, đặt ống trúm để bắt lương , đến sáng là thu hoạch. Cho nên trong nhà lúc nào cũng có lươn, cá , cua đồng.    Bây giờ nhớ lại sao hồi nhỏ mình giỏi đến thế . Trong khi cháu tôi  bây giờ ở tuổi này chẳng biết làm gì. Đúng là “ thời thế tạo anh hùng”. Thủa ấy con nít chẳng có thú vui nào ngoài đánh bi, đánh đáo, nhảy dây. Hai chị em chơi với nhau nhưng thằng em tôi nó rất “gian hùng” hễ ăn thì thôi mà thua thì nó xí huề bỏ chạy. Tôi rượt theo túm cổ nó hai đứa caĩ nhau, gặp lúc má tôi ngủ trưa nghe ồn, không biết ai phải ai quấy bà kêu hai đứa nằm dài đánh đòn.

Chúng tôi vui cái vui hồn nhiên của chốn đồng quê…  

 

Rồi những ngày đầu năm 1954 chiến dịch ATLANTE Quân đội Quốc gia  đổ bộ ra Tuy Hoà. Ban đầu họ đóng quân khoanh vùng, xã tôi còn thuộc Việt minh kiểm soát (trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Ba tôi đi theo kháng chiến chống Pháp nên chúng tôi ở nhà với má nhiều hơn). Má tôi tìm cách đưa gia đình trốn thoát vô Nha Trang. Sau khi về sum hợp với gia đình bên ngoại thì ít tháng sau hiệp định Genève ký kết chia đôi đất nước. Thời gian này người Bắc  thì di cư vào Nam, cán bộ Việt minh thì tập kết ra Bắc. 

 

Mọi việc tạm ổn má tôi đưa tôi đi Sài gòn cho biết luôn tiện thăm bà con bạn bè ngày trước.   Sau bao nhiêu năm sống ở quê nội trong vùng Việt minh nhà cữa bị ‘”tiêu thổ kháng chiến” không còn gì, khi vô Phan thiết thấy nhà cữa sang trọng cảm thấy lạ lẫm vô cùng. Như nhà ngọai tôi trên đường Huyền  Trân Công chúa từ tòa tĩnh đến biển Thương Chánh cả một con đường dài toàn là biệt thự (Villa )cất theo lối kiến trúc thời Pháp; nhà ông bà ngoại tôi cũng vậy cả một biệt thự rộng lớn, trước sân có nhiều cây kiểng, xung quanh có tường rào bao bọc. … Nhưng đến khi vào đến Sài gòn tôi thật ngỡ ngàng, thành phố rộng lớn, sầm uất, nhiều nhà cao tầng, người người sang trọng. Hồi đó còn mang âm hưởng của một thời thuộc đia, với những con đường mang tên: Catinat, Galile, Quai de Belgique… khu thương mại Charner…    Tôi được bà bạn thân của má tôi cho tiền, con bà dẫn tôi đi cine, từ xứ quê mùa đến lần đầu  được đi xem phim tôi thích quá! Khi ra khỏi rạp chiếu bóng thấy hai bà đầm Pháp gặp nhau mừng ôm nhau hôn, tôi thấy lạ quá về nhà tôi nói với má: má ơi con thấy hai bà đầm gặp nhau quẹt quẹt cái mỏ. Cả nhà ai cũng cười câu nói ngây thơ của tôi.   Tôi thấy đa số phụ nữ  đầu kẹp tóc hơi  phồng hai bên, tóc bới thả lỏng sau gáy, áo dài không chít eo, thanh niên thiếu  nữ thời này nhiều người biết đờn Mandoline. Tôi có bà mợ đờn Mandoline rất hay ( sau này khi tôi trọ học ở nhà cậu mợ, bà có chỉ cho tôi học đờn, tôi chỉ đờn độc nhất có một bài “Con thuyền không bến’” của  Đặng Thế Phong, rồi sau đó trả hết lại cho thầy). Người  nào trông cũng giản d, hiền hòa. Những hình ảnh này còn mãi trong tôi, cho nên sau này tôi thích đọc chuyện và xem phim của cụ HỒ BIỂU  CHÁNH, dĩ vãng như sống lại trong tôi những ký ức về tuổi thơ. Chuyện của Hồ Biểu Chánh thường quay quanh những đại điền chủ, những ông Hội đồng có xe hơi, xe ngựa,  nhà cữa sang trọng, gia nhân đông đảo… hoặc thiện hoặc ác,  bên cạnh những mảnh đời lam lũ bấc hạnh… vẻ lại bức tranh của một thời  thuộc đia nhưng  chuyện nào cũng có hậu.  Đọc chuyện của Hồ Biểu Chánh tôi bắt gặp đâu đó bóng dáng của gia đình tôi trước năm 1945 . 

 

 Sau khi chia đôi đất nước tình hình đã ổn định, chúng tôi trở về lại Tuy hòa.  Nhà tôi  ở thôn quê nên phải ra thành phố trọ học,  dạo đó thành phố Tuy hòa còn rất đơn sơ, sau 9 năm “tiêu thổ kháng chiến” chỉ còn lại tiêu điều. Từ trường Bồ Đề, bây giờ đi xuống  toàn là nghĩa địa, , ngày nào cũng thấy cờ phướng cúng vong để hốt cốt. Hồi đó tôi đang trọ học ở nhà bác Hương Bộ Nhành. Bác có 3 người con  đang ở với bác là anh Châu, Liêm và Lý, còn có thêm  mấy cậu từ TuyAn vào trọ học. Nghe đồn hằng đêm có ma  hiện ra nơi nghĩa địa.  Bọn trẻ chúng tôi tuy sợ ma nhưng tò mò nên rủ nhau đi coi ma. Chúng tôi 6 đứa đi trên 3 chiếc xe đạp. Phần tôi nghĩ bụng mình đi trước có đằng sau hộ tống chắc ăn, ma chỉ theo đằng sau . Liêm chở tôi  cứ đạp xe tiến tới , đến khi quay đầu nhìn lại thì ôi thôi hai xe sau  đã bỏ mình quay đầu lại lúc nào không biết. Vừa quay đầu xe vừa té vì lính quýnh.

Trường Nguyễn Huệ cũ chung quanh cũng là nghĩa địa, bàn chải, xương rồng mọc um tùm. Những năm này cư dân  ở đây đa số là người ở thành phố lâu năm. Những  năm sau này mất an ninh nên nhiều gia đình khá giả ở nông thôn đến  thành phố sinh sống nhiều nên việc trọ học cũng có phần khó khăn. Nhất là hồi đó cả tĩnh Phú yên  chỉ có một trường trung học công lập Nguyễn Huệ, sau này mới có thêm trường Bồ Đề và các trương trung học tư thục khác..

Hiệu trưởng đầu tiên của trường Nguyễn Huệ là thầy Đinh Thành Bài.  Các giáo sư chỉ có một số ít thầy, đa số là người Huế như thầy Nguyễn Thúc Tâm, thầy Hàng  Huy Quang dạy Pháp văn, thầy Nguyễn Ngọc Nhâm dạy Anh văn, thầy Trương Đống dạy Việt văn, thầy Chút, thầy Thắng, thầy Tri dạy các môn vạn vật, sử địa , công dân giáo dục....Năm đó thầy Trương Đống ra Tuy an hay Sông Cầu  gì đó để canh thùng phiếu bầu cử thì bị mất tích luôn. Con gái của thầy là Trương thị Bích Cầu cũng học cùng lớp B2 với chúng tôi, anh Hàng Phi Hạc con thầy Quang cũng cùng lớp. Lớp B2 của chúng tôi có Phạm thị Lĩnh hiện ở Pháp ,Kim Dung (Úc) Bích Cầu (Mỹ) Nguyễn thị Ngọc (Mỹ) Lê thị Diệu (VN) đã qua đời, Xuân Lan (Mỹ_ người hay ăn hiếp tôi), chị Hạnh Phước cũng đã qua đời, nam giới thì tôi chỉ nhớ  có ít người như Lê long Thành,(Mỹ ), anh bác sĩ Bách (Mỹ), Võ duy Dương sau  này vào Võ Bị Đà Lạt. Trong số bạn bè ngày xưa  qua Mỹ  tôi được gặp lại anh Vũ Hữu Bàng  cháu thầy hiệu trưởng  trường Nguyễn Huệ ( sau thầy Đinh Thành Bài) thầy Vũ Tri Phú, anh Trịnh Kháng. Anh Bàng là sĩ quan Không Quân. Anh Kháng sau khi tốt nhiệp Đại học Sư phạm ra đi dạy rồi bị động viên nhập ngũ. Hai anh đều là sĩ quan nên có thời te tua trong các trại tù CS. Chị Hạnh Phước theo chồng đi diện HO  đến Mỹ chỉ ít năm thì cũng từ giả bạn bè ra đi sau một cơn  bạo bịnh. Cũng may anh Bàng, anh Kháng, Chị Hạnh Phước cùng ở California nên thỉnh thoảng chúng tôi có dịp liên lạc và gặp nhau.. Nhắc lại chuyện xưa mới biết kẻ còn người mất. Mới đây tôi nghe tin cùng lớp chúng tôi có Lê Văn Sý làm quận trưởng một quận nào đó ở Miền Tây ngay sau ngày 30.4.1975 VC vào tận nhà bn chết anh.  Trong số bạn bè còn nhiều người nữa đã vĩnh viển ra đi!

Trong  những năm  ở đệ nhất cấp này tôi với Nguyễn Thị Ngọc có nhiều kỷ niệm khó quên mà bây giờ  mỗi khi nói chuyện với  nhau qua điện thoại nhắc lại chuyện xưa hai đứa cười thoải mái.

 

Vào thời đó ở Tuy Hòa học sinh quen với cuộc sống của 9 năm kháng chiến nên khi vào trung học nữ sinh ít hoặc không mặc áo dài. Các giáo sư người Huế cứ khuyến khích chúng tôi mặc áo dài đi học nhưng vì ngượng nên chúng tôi không mặc. Rồi một hôm đẹp trời, Ngọc lượm được cái áo dài  bông của bà chị còn tôi lượm được cái áo dài xanh của bà dì út, hai đứa bàn nhau hôm nay đi học mình mặc áo dài. Ngoài mặc áo dài nhưng bên trong mặc cái áo chemise dày cộm(chưa biết mặc bra) chẳng may hôm ấy đi trễ, gần đến trường nghe tiếng kẻng vào lớp, hai đứa đưa tay”bực bực” cỡi áo dài ra nhét vào cặp.

Thời niên thiếu của chúng tôi  vô tư và quê mùa như vậy! Cũng may chúng tôi ai cũng ham học, không biết đua đòi mặc dù học hành thi cử khó khăn nhưng chúng tôi cũng gắng vượt qua, chúng tôi được hấp thụ  một nền giáo dục tốt, những giờ công dân giáo dục dạy chúng ta nên người biết kính trên nhường dưới, kính thầy thương bạn, sống có nhân cách có đạo đức... cho nên phải nói những thế hệ này đã làm nên một Miền Nam không thiếu người tài đức.

Ngọc thông minh ,học giỏi  nên đường quan lộ thuận buồm xuôi gió. Sau này Ngọc tốt nhiệp  Cao học Quốc gia Hành chánh, chẳng những công danh suông sẻ mà còn “tuổi trẻ tài cao “ đã lên đến chức bà cố từ lâu!

 

Nhà tôi cách thị xã Tuy hòa 10 km về hướng nam hồi đó chưa có cây cầu mới xe hơi và xe lửa chạy chung trên cầu Đà Rằng, nên tôi không dám đạp xe qua cầu. Thủa ấy  chưa có xe lambretta, chỉ có xe ngựa nhưng chỉ chạy  từ Bàn Thạch ra đến Phú lâm. Nhà tương đối gần quốc lộ 1 nên có thể đón xe đò từ Nha Trang ra. Thời nay có  xe gắn máy  thì coi như quá gần, vậy mà cứ  mỗi cuối tuần về nhà là  tôi thấy nó ấm áp làm sao!  Đến nỗi chiều chúa nhật phải ra thành phố sớm một chút mới  dễ đón xe vậy mà tôi cứ nấn ná ở lại, tiếc từng giây từng phút. Có hôm ra quốc lộ trễ không còn xe mà muốn khóc; cũng may thỉnh thoảng có xe Lục lộ chở cát , đá từ đâu đó chạy ra thành phố tôi phải đón xin quá giang họ cũng chở giùm.

 

Sau này lớn hơn một chút thỉnh thoảng cuối tuần tôi đạp xe về nhà. Có những buổi chiều đi ngang qua cánh đông từ Phú lâm về Đông Mỹ,  hai bên đưng ruộng lúa mênh mông, mạ non xanh ngát, không một bóng người,  gió mát hiu hiu, xa xa thấy đàn cò đang bay lại, vừa đạp xe vừa thả hồn theo các nhân vật và quang cảnh của các tác phẩm trong Tự Lực Văn đoàn...thấy quê hương mình thanh bình và đẹp làm sao ! Tuổi trẻ với nhiều hoài bảo, tôi mơ một mai lớn lên làm gì đó có ích cho quê hương đất nước. (tuy còn nhỏ  nhưng tôi đã ý thức được thời cuộc, có thể quá sớm đối với lứa tuổi của tôi) Tôi mơ làm bà Trưng, bà Triệu. muốn đội đá vá trời; nhưng rồi tỉnh cơn mơ nhìn lại thấy mình là con nít quê mùa dốt nát, nên Bà Trưng, bà Triệu tiếp tục lộc cộc đạp xe về nhà.

 

Tôi rất thích thơ và nhạc tiền chiến. Gần như các bài thơ tôi đều thuộc, có những bài chỉ đọc vài ba lần là tôi thuộc (bây giờ đọc trăm lần cũng không nhớ!). Dạo đó ở Miền Nam cũng có đăng những bài của miền Bắc như Nhân Văn Giai phẩm tôi đều đọc hết, biết đến Hữu Loan, Quang Dũng, Văn Cao … một thời mê Màu tím hoa sim, Nhà tôi,  Đôi mắt người Sơn Tây….

Tôi là chị cả trong gia đình, các em còn rất nhỏ, nên mỗi tuần về nhà là tôi lôi ra bao nhiêu việc để làm, quét dọn từ trong nhà ra đến ngoài ngõ, vườn nhà tôi rộng, cây trái đủ loại, nào chuối,  đu đủ , saboche, xoài, chùm ruột, khế ngọt khế chua gì cũng có, ổi ,me, trâm, dừa, mít....Chim ăn trên cây mà chẳng ai quan tâm đến, mỗi khi về nhà là tôi leo trèo hết  cây này đến cây khác..

Tuy hòa vào cuối thập niên 50 chưa mở đệ nhị cấp nên chúng tôi phải vào NhaTrang học tiếp để thi tú tài, lại thêm một lần phải xa quê.  Lần này xa hơn nên có khi mấy tháng mới về nhà một lần. Tôi ở trọ nhà ông cậu ở đường Yersin.

Bạn từ Nguyễn Huệ với tôi có Hoài Ân, hai đứa rủ nhau  nhảy lớp bỏ đệ tam học đệ nhị, Ân cũng cùng ở chung với tôi. Nhatrang  những năm này rất êm đềm nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, những ngày cuối tuần chúng tôi thường ra biển  hóng mát ,nhìn trời  mây mơ mộng, đạp xe  xuống Cầu đá viếng Hải học Viện, ra Hòn chồng..

Những năm này ở Nha Trang ngoài trường Võ Tánh ra còn có nhiều trường trung học tư thục có đệ nhị cấp cũng nổi tiếng như trường bán công Lê Qúi Đôn, Tương lai, Văn Hóa, Kim yến... cho nên đa số  học sinh các tĩnh như Ninh Thuận ,Phú  yên đều đến đây học.

Năm  đầu Hoài Ân với tôi cùng học ở Kim Yến; ở đây thầy Trương văn Như làm hiệu trưởng. Thầy có cô con gái chị Nguyệt Thu rất đẹp chị cũng học cùng lớp với chúng tôi. Nhà thơ Quách Tấn dạy cổ văn,thầy Nguyễn công Kiểm từ Võ Tánh  ra dạy Tân vân. Năm đó hai chúng tôi đều rớt tú tài 1; năm sau chúng tôi nhảy qua bán công Lê quí Đôn. Ở đây thầy Cung Gĩu Nguyên làm hiệu trưởng dạy Pháp văn. Thầy Bùi  Đặng Hà Đà dạy Anh văn. Nhà văn Thạch Trung Gỉa dạy Việt văn. Thầy Phương dạy toán. Thầy Tần dạy sử địa rất hay. Thầy giảng mạch lạc, ghi dàn bài lên bảng đen đến khi thầy giảng xong là chúng tôi còn nhớ rõ khỏi cần học bài.

Nữ sinh trong lớp này  cô nào cũng xinh và hiền lành; nào Thanh Vân, Hoài Nam, Như khuê, Tuyết Hồng, chi Huỳnh Kim Lượng, Lý, hai chị em Chị Hồng Và Hường cũng từ  Phan Rang ra Nha Trang học , và còn nhiều bạn nữa... đa  số các bạn nữ nhiều người giỏi văn. Hoài Nam là chị của nhà văn Hoài Bắc,  các bạn trong lớp ai cũng hiền lành không có tính ranh mảnh nên dễ kết thân với nhau. Trong lớp cũng có một anh giỏi văn anh Trần Ngọc Cơ người Phan Rí, sau khi  đậu tú tài anh vào trường Bộ Binh Thủ Đức khóa 13.. Những người bạn năm xưa giờ trôi dạt  bốn phương , chắng biết ai  còn ai mất. Hoài Ân  người bạn cố tri từ TUY Hòa vào Nhatrang  học cùng nhiều  năm gắn bó  với nhau giờ cũng đã từ bỏ cõi đời!

Thi cử thời này rất khó ,tỷ lệ đậu rất ít. Thường trung tâm thi ở trường Võ Tánh, thí sinh từ các tĩnh như : Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Ngồi theo vần  A  B C, nam nữ ngồi chung một bàn  chỉ từ 2 đến 3 người,nào là giám thị phòng thi rồi giám thị hành lang quần qua quần lại để bắt thí sinh gian ln! Nên chúng tôi chỉ biết cắm đầu vào việc học hành,  ai cũng biết giữ mình, sợ tai tiếng, không dám yêu đương sớm nên bỏ qua nhiều cơ hội...

 

Rồi 30 tháng 4  năm 1975 ập đến, mọi việc đều thay đổi tận gốc rễ, ai cũng tất bật với cuộc sống, với thương đau.

Thiết nghĩ trong lịch sử VN  chưa có thế hệ nào đau thương và bi hùng  như thế hệ chúng tôi, trưởng thành trong bom đạn, nhưng vẫn vượt qua vẫn vươn lên vậy mà sau khi ngưng tiếng súng đáng lẽ phải được hưởng  thanh bình ấm no lại phải chịu đựng bao đắng cay khổ nhục. Biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang ở tuổi xuân thì phải chia ly, con cái bơ vơ. Kẻ ra đi bỏ thân nơi rừng sâu  biển cả, người ở lại nhục nhằn đau thương. Ôi nói sao cho hết!

 

Lần này  tôi mất quê hương,  một quê hương lớn hơn đó là QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM  để đi tìm tự do, đến một nơi vô định, đơn độc nơi xứ người, nhớ nhà nhớ quê quay quắt. Cứ mỗi lần nhìn trên TV thấy bờ tre, bụi chuối là khóe mắt cay cay. Đến nỗi có lần nằm mộng thấy  mình về VN bị Công an bắt hỏi tôi tại sao bỏ nước ra đi tôi dõng dạc trả lời” tôi  đi  tìm tự do vì ở đây không có tự do”, rồi lo buồn hối hận về làm chi, đến khi tỉnh giấc thấy mình còn nằm trên giường , mừng ơi là mừng! Thì ra  có thể đẩy người ta ra khỏi quê hương chứ không thể đẩy quê hương ra khỏi trái tim mỗi người.

Từ thù địch, phản động, hôm nay trở thành khúc ruột ngàn dặm nên bây giờ  giữa VN và các nước đi lại dễ dàng thì tình cảm đó không còn đậm đà như xưa!

Cảnh cũ đã không còn

Người xưa cũng ra đi!

Phải chăng chúng ta là những chàng Từ Thức của ngày nay.

 

 NGUYỄN BẠCH TUYẾT

(Những ngày trốn covy)

 


No comments: