Chuyện Tình… Hải Tặc -
Nguyễn Cát Thịnh
Em chỉ nghĩ rằng anh
là đứa con của định mệnh. (Hình: Thận Nhiên)
– Giới thiệu với chú,
đây là bạn gái của cháu. Cô đã cùng với thám tử tư giúp tìm ra người cha hải
tặc của cháu như trong bài viết “Đứa Con Lai… Hải Tặc” của chú. Còn đây là
ông chú mà anh vẫn thường nói với em.
- Chào chú! Chú ngạc
nhiên lắm phải không? Con đã được nghe rất nhiều về chú. Con muốn gặp chú từ
lâu nên đã nhờ bạn thu xếp giúp. Con từ Thái Lan qua, đang theo học tại
Michigan State University. Con chọn trường này vì biết bạn cũng ở thành phố
Detroit, Michigan.
- Chú không ngờ hai
đứa lại hội ngộ ở Mỹ. Vui quá! Nhất là cả hai đều nói tiếng Việt rất giỏi.
- Chú quá khen đấy
thôi. Cháu sinh ở Mỹ, chỉ nói đựợc tiếng Việt, giọng Bắc, nhưng đọc và viết thì
chịu thua. Bạn gái cháu sinh ở Thái, nói giọng Nam ngọt như mía lùi. Viết thì
hết sẩy, vì được học với mẹ và học gần hai năm ở Khoa Việt Nam học – Đại Học Sư
Phạm Hà Nội.
- Chú bái phục cả hai
cô cậu. Thôi bây giờ chúng ta tìm tiệm cà phê Starbucks gần đây. Tha hồ chúng
ta nói chuyện cũ, chuyện mới.
Cuộc trò chuyện thân
tình, cởi mở cùng hai người trẻ với tư duy mới để lại thật nhiều ấn tượng. Họ
khiến tôi phải xét lại một vài quan niệm lỗi thời.
Phong cách và thái độ tự tin qua cách nói chuyện của họ cuốn hút đến nỗi tôi quên cả không gian lẫn thời gian. Quên mất cả tuổi già (một chút luyến tiếc tuổi trẻ đã qua.) May còn nhớ đường về!
Sau buổi chiều thú vị
này, tôi vội ghi lại hai “Chuyện Tình… Hải Tặc” độc đáo:
– Chuyện tình cũ, tiền
hung hậu kiết, của một hải tặc hoàn lương với một nạn nhân hụt của hải tặc.
– Chuyện tình mới,
trong sáng, của cô gái kết tinh từ duyên kỳ ngộ của đôi uyên ương trên và “Đứa
Con Lai… Hải Tặc.”
Lời cô gái:
Chú đã bao giờ đến Sóc
Trăng chưa? Đó là quê ngoại của con.
Trước 75 ông bà ngoại con có tiệm vàng ở trên đường Hai Bà Trưng. Ông ngoại đã mất ít lâu sau ngày đổi đời. Bà ngoại vẫn sống với các dì, dượng từ đó đến nay. Má là con út trong gia đình có năm anh chị em.
Nghe má kể, gần ba
mươi năm trước, Dượng Hai hùn với mấy người bạn mua ghe tổ chức vượt biên. Khi
đó má đang là giáo viên, buồn chuyện tình ngang trái với một đồng nghiệp, muốn
bỏ xứ đi xa nên xin một chỗ trên tàu.
Bà ngoại can ngăn
nhưng má nhất quyết, bà đành để má ra đi mà trong lòng thấp thỏm. Cho đến bây
giờ, mỗi khi nghe thuật lại chuyến đi kinh hoàng ngoại vẫn còn run rẩy, vẫn
chảy nước mắt.
Khách trên ghe đa số
là bà con quen biết. Khởi hành từ Vĩnh Châu. Qua được hải phận quốc tế thì máy
chính trục trặc không sửa được, phải chạy bằng máy phụ.
Đám đàn bà con gái xôn
xao bàn tán, lo ngại vì tàu chỉ chạy quanh quẩn trong vịnh Thái Lan, e có nguy
cơ gặp hải tặc. Nhiều người bàn chuyện quay lại. Thà trở về ở tù còn hơn phải
đương đầu với nguy hiểm rình rập.
Trong lúc còn đang
phân vân chưa quyết định có nên đi tiếp hay không thì điều lo sợ đã xảy ra,
không kịp trở tay.
Hai chiếc tàu hải tặc
chạy vòng quanh tàu, quan sát vài phút rồi hùng hổ tiến đến kẹp sát hai bên
hông, đâm thủng một lỗ lớn. Chúng huơ huơ vũ khí. Dao dài, dao ngắn, súng, búa,
rìu, đe dọa, đàn áp tinh thần mọi người.
Khi nước biển bắt đầu
tràn vào phòng máy thì sự hoảng hốt lên đến cực độ.
Phần sợ ghe chìm chết đuối, phần lo hải tặc chém giết, hãm hiếp. Không ai dám lên tiếng. Đa số chấp nhận đầu hàng để mong được bảo toàn tính mệnh.
Có người vật vã than
khóc, có người lâm râm cầu trời khấn Phật, có người ngơ ngác như mất trí.
Rất nhanh chóng, những
tên hải tặc vạm vỡ, đứa mình trần, đứa quấn khăn rằn, nhảy lên tàu uy hiếp các
thanh niên, trói lại, dồn vào một góc hoặc ném xuống hầm.
Họ bắt đầu lục soát
từng người, từng vật dụng, từng chỗ nghi ngờ nơi giấu vàng bạc châu báu.
Dì Hai, vợ của Dượng,
giấu đầy vàng lá khâu kỹ trong áo lót, bị chúng lột trần truồng, đạp xuống
biển. Má con sợ quá, lôi trong cạp quần tất cả số vàng mang theo đưa cho chúng
trước khi bị khám xét.
Sau khi biết chắc chắn
đã vơ vét cạn kiệt những gì muốn tìm, chúng bắt đầu chiếu cố đến chiến lợi phẩm
kế tiếp: phụ nữ!
Mặc sự giãy giụa phản
kháng, các cô gái trẻ đều bị chúng kiểm soát hàng họ. Xong, tuyển chọn một số
vừa mắt chuyển xuống ghe của chúng.
Má cũng không thoát
khỏi.
Những người còn lại
trên ghe cởi trói cho nhau, gấp rút tát nước, lấp lỗ thủng, tìm sự sống trong
cõi chết.
Nhiều ngày sau, tàu
may mắn trôi giạt vào Côn Sơn và tất cả đều bị bắt.
Hai tàu của hải tặc
chạy mất hút. Các trò khả ố đã diễn ra. Các cô gái mềm nhũn nhắm mắt chịu nhục
để những con thú thỏa thuê trên các thân xác bất động.
Một tên xáp lại gần
má, mắt hau háu. Má co cụm, cúi mặt, hai bàn tay nắm chặt, ngồi ôm đầu gối. Hắn
giơ chân đạp, đẩy má ngã ngửa. Phản ứng tự vệ khiến má giơ tay chống đỡ. Chiếc
tượng Phật bằng vàng, vật hộ mệnh ngoại trao, rớt xuống sàn. Hắn sáng mắt, cúi
xuống định lượm thì nhanh như chớp, một cánh tay khỏe mạnh từ đằng sau chận
lại. Người hùng đó chính là ba tương lai của con.
Sau này nhắc lại, ba
nói rằng khi chiếc tượng Phật rơi ra khỏi lòng bàn tay của má, một tia sáng với
hào quang vụt loé làm ba chóa mắt. Cho rằng bị phép lạ của Phật Bà cảnh tỉnh,
ba bỗng thấy hổ thẹn trước người con gái yếu đuối, có gương mặt thơ ngây, thánh
thiện. Tưởng như hiện thân của cô bé láng giềng mất tích từ thuở nhỏ mà hình
ảnh chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí. Ba nâng má dậy, bồng vào vào cabin, săn
sóc tựa người thân.
Hình như có tiếng nói
của một người vô hình ra lệnh cho ba phải bảo vệ má. Dù bị đồng bọn nói xiên xỏ
nhưng ba phớt lờ. Họ nể ba vì ba là thợ máy, có chút chữ nghĩa, nên để má yên.
Qua gần một tuần bị
hành hạ, cuối cùng các nạn nhân khốn khổ và má được họ thả vào bãi đất hoang
của làng chài Budi thuộc vùng bờ biển phía Nam, ráp ranh giới Mã Lai.
Ba trốn tàu, lên bờ,
bí mật theo dõi má từng đường đi nước bước.
Cảnh sát tạm giữ tất
cả, đồng thời báo cáo lên cấp trên chờ lệnh.
Cơ quan thiện nguyện
được yêu cầu đem xe bus đến đón, bảo lãnh, đưa về Songkhla làm thủ tục nhập
trại dù khi đó có tin đồn trại sắp bị đóng cửa vĩnh viễn.
Má được xếp ở chung
chòi lá với những cô gái đơn thân.
Sống ở ngoài không
lâu, ba xin được công việc bảo trì điện nước ngay trong trại tỵ nạn một cách dễ
dàng vì nói được chút ít tiếng Việt căn bản.
Hàng ngày nhìn thấy má
nhưng mỗi lần ba lại gần liền bị má giận dữ xua đuổi.
Một hôm đi xách nước,
má trượt chân té xuống ao kêu cứu, ba ở xa trông thấy vội phóng đến, nhảy xuống
kéo lên, trong khi mọi người khác chỉ đứng nhìn.
Ba làm sơ cứu, xong
bồng má phi thân đến bệnh viện cách khá xa.
Khi hơi hồi tỉnh, mở
mắt thấy ba đứng khép nép cuối giường với vẻ mặt ủ rũ, má chợt hiểu, chút áy
náy trong lòng.
Từ đó tuy má không còn
nhìn ba với con mắt thiếu thiện cảm nhưng vẫn lẩn tránh tiếp xúc. Ba chỉ còn
cách âm thầm dõi theo cuộc sống của má.
Thực phẩm trong trại
phân phát hầu như không thay đổi, ăn mãi một thứ cũng ngán, ba muốn tiếp tế đồ
ăn mua bên ngoài nhưng má luôn luôn từ chối.
Ba nhờ người quen gởi
cho má quần áo và những vật dụng hàng ngày của phụ nữ, nói dối là tặng phẩm của
hội đoàn từ thiện. Má tưởng thiệt nên nhận nhưng khi biết là của ba thì má trả
lại hoặc mang cho người khác.
Ba không nản chí, tìm
đủ mọi cách giúp má bớt khó khăn trong điều kiện sinh hoạt rất giới hạn trong
trại.
Sau 14 Tháng Ba,
1989, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) quyết định đóng cửa các trại tị nạn,
mọi thuyền nhân phải qua thanh lọc để hoặc được tiếp tục đi định cư nước thứ
ba, hoặc phải hồi hương, trở lại nơi đã ra đi.
Không may, má nằm
trong diện đó.
Buồn hơn nữa, má rớt
thanh lọc.
Má và những người cùng
số phận được chuyển sang trại Sikiew, nơi giống như nhà tù, có canh gác nghiêm
ngặt.
Nếu không được đề nghị
tái xét thì chỉ còn đường xin tự nguyện hồi hương hoặc chờ bị cưỡng bách hồi
hương.
Ba kiên nhẫn theo má
đến tận chỗ mới. Lần này ba chỉ sống quanh quẩn bên ngoài trại.
Thỉnh thoảng mua chuộc lính canh, lọt vào bên trong, liên lạc với má.
Sự lạnh lùng thường
nhật của má vẫn không làm nản lòng người tình si. Chỉ đến khi một chuyện bất
ngờ xảy ra khiến quan hệ giữa hai người bước sang ngả rẽ mới.
Trong một đêm, đám
lính nhậu nhẹt say sưa gây náo loạn, bắt cóc má và hai cô gái khác, lôi ra
ngoài trại.
Tiếng la hét của các
cô gái cầu cứu báo động vài thanh niên cảm tử đuổi theo, bất chấp lệnh giới
nghiêm sau 10 giờ đêm. Lính canh nổ súng buộc các thanh niên phải trở vào.
Biết có biến vì nghe
tiếng súng nổ, ba vội vàng tìm đến. Kịp nhận ra một trong ba cô gái bị lôi kéo
là má. Lấy hết sức bình sinh, ba liều mạng xông pha, vùng lên như cọp dữ, đá
bay tên này, đấm gục tên kia, các tên còn lại sợ quá, trốn chạy.
Má chưa hết hoàn hồn,
chân tay bủn rủn không đi đứng nổi. Một lần nữa ba lại có dịp bồng má, đưa vào
chỗ nghỉ.
Phải mất một ngày má
mới tạm hồi phục.
Ánh mắt của má nhìn ba
bây giờ đã có chiều trìu mến. Má không còn từ chối sự săn sóc của ba nữa.
Má e thẹn nhớ đến
những lần “bị ba bồng”, cảm giác lâng lâng dễ chịu. Tình cảm đã bắt đầu nhen
nhúm.
Viễn ảnh cưỡng bách
hồi hương trước mắt. Tình trạng mất an ninh trong trại. Tình yêu vừa chợt đến.
Tất cả các nguyên do đó đã khiến má không có sự chọn lựa nào khác khi ba ngỏ
lời đưa má ra khỏi trại, bằng cách hối lộ các quan chức có thẩm quyền.
“Ba đưa nàng về dinh”
ở thành phố Bangkok.
Khi tình yêu đã chín
muồi, họ đồng lòng làm lễ cưới theo Phật giáo, ước mong có sự kết hợp thiêng
liêng.
Các Tỳ kheo được cung
thỉnh đến tụng kinh cầu an trong căn nhà của đôi tân hôn. Theo phong
tục, sáng hôm sau ba má đem thức ăn cúng dường cho chư Tăng trước khi
họ tiến hành hôn lễ. Chư Tăng tiếp đó đọc kinh cầu phúc và rải nước thánh chính
thức công nhận cuộc hôn nhân.
Ba má mở tiệm ăn đặt
tên “Thai-Viet”, chọn nghề chân chính, làm ăn lương thiện. Khách ủng hộ mỗi
ngày mỗi đông. Không giàu có nhưng sống sung túc. Gia đình ổn định theo giáo lý
nhà Phật.
Hai người anh trai
song sinh và con đã lần lượt ra đời và trưởng thành từ căn nhà bình yên, lúc
nào cũng vang vang tiếng cười hạnh phúc.
Ba tin ở thần Ganesha,
vị thần đầu voi tượng trưng cho sự hợp nhất giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ,
được xem là vị phúc thần đáp ứng những điều may mắn, cát tường mà ba thường cầu
nguyện.
Chú ạ! Con không có ý
thuyết pháp đâu nhưng chú cho phép con nói một chút về quốc giáo của Thái Lan
nhé.
Phật giáo có một vị trí
vô cùng quan trọng, đã đóng góp tích cực vào đời sống của người dân Thái, không
những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của họ.
Xứ sở được biết đến
như quê hương của nụ cười, đất nước của những chiếc áo cà sa. Nó nói lên một
cách sâu sắc về một đạo giáo lớn mà dân tộc Thái tôn thờ.
Trong mỗi con người,
ngoại trừ hải tặc và kẻ gian ác, đều có niềm tin và tín ngưỡng, đều tin tưởng
và cầu nguyện cho mọi điều tốt đẹp đến với tha nhân, đến với bản thân cùng gia
đình. Có tin tất có linh!
Ấy thế, từ các dân
đánh cá hiền lành, một số ngư dân Thái đã bị vật chất và dục vọng cám dỗ, trở
thành những tên hải tặc điên cuồng gây ra thảm kịch kinh hoàng trên biển đông
suốt hai thập niên. Cả thế giới lên án. Tên và hình ảnh đất nước Thái Lan bị
hoen ố. Người Việt căm hờn, thù ghét.
Con rất xấu hổ về
những tội ác dã man, ghê tởm của họ. Sự thiếu hiểu biết giáo lý nhân quả nghiệp
báo đã làm cho họ xa cách khuôn khổ của chánh pháp.
Con tin, đời này và
đời sau họ sẽ phải trả giá, ác giả ác báo.
Với một đất nước có
gần 95% người dân theo đạo Phật Nam Truyền, 4.6% đạo Hồi, 0.7% Thiên Chúa giáo,
con tin các hải tặc hoặc vô thần hoặc là tín đồ hoang đạo của một trong các đạo
giáo đó. Họ cũng có thể thuộc về tà giáo, tín đồ của quỷ Sa Tăng.
Con rất mừng và hãnh
diện vì ba đã sớm tỉnh ngộ, đã trở lại với bản chất hiền hòa, từ ái, khiêm cung
và nhã nhặn của một người dân Thái tiêu biểu. Đã thể hiện một phần nào cốt lõi
Phật pháp qua cách thực hành đạo lý.
Hồi cuối năm ngoái,
con đã đến Ogden thuộc tiểu bang Utah dự lễ khai trương của chùa
Chaimongkolvararam.
Quỳ lạy trước Phật A
Di Đà, con xin Ngài chứng giám cho ba, người mà một thời là hải tặc, đã nguyện
sống một đời ăn năn sám hối. Con xin Ngài ban sức mạnh để ba giữ mãi sự quân
bình trong tâm khảm. Con cầu chư Phật độ trì cho ba má giữ hương lửa tình yêu nồng
ấm đến trọn đời.
Con cầu Ngài soi ánh
đạo vàng, giải thoát những hải tặc già cũng như trẻ, ra khỏi vòng u mê, tìm
thấy chánh đạo.
Con cũng không quên
cầu nguyện cho những nạn nhân của hải tặc, đồng bào Việt Nam ruột thịt của má
con. Cầu cho người chết được siêu thoát. Cầu cho những người sống sót tìm lại
được bình an.
Lời chàng trai:
Như chú biết, cháu đã
trải qua một thời gian dài ở Thái Lan, quyết tìm gã hải tặc gieo rắc hậu chứng
bi thương cho gia đình cháu.
Những ngày tháng vô
vọng, cháu len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm của các thành phố Thái, chỉ cầu may
gặp sự mầu nhiệm.
Có hôm anh tài xế xe
Tuk-Tuk đưa cháu vào tiệm ăn Thai-Viet ở Bangkok. Ở đấy cháu gặp và quen cô
sinh viên con ông bà chủ (chồng Thái vợ Việt.)
Với nụ cười tươi, tiếp
đãi lịch sự ân cần, nói năng ngọt ngào, cô đã chinh phục được người khách
phương xa, gây cảm tưởng tốt đẹp.
Cô có dáng dấp rất
Việt Nam, tiếng Việt chuẩn mực, cách nói thu hút người nghe. Chả thế mà cháu đã
trở thành thực khách trung thành suốt thời gian ở Thái.
Trong khi chờ thám tử
cung cấp tin tức về người cha hải tặc, mỗi tuần ít nhất ba ngày cháu phải đến
tiệm, vừa để ăn uống vừa để có dịp gặp gỡ cô gái.
Chúng cháu có thể ngồi
bàn luận hàng giờ không chán, đủ mọi lãnh vực, rất tương đồng, tương đắc.
Hôm nào không đến,
thấy nhớ kỳ lạ.
Cháu để ý thấy cô tiếp
cháu có vẻ vồn vã đặc biệt hơn các thực khách khác.
Cháu tự hỏi có phải đó
là khởi đầu của tình yêu? Chú có tin tiếng sét ái tình không?
Thú thật, ngay lần gặp
đầu tiên cháu đã liêu xiêu, có phải cháu “bị” rồi không chú?
Khi đề cập đến đời tư,
chúng cháu nhận ra gia cảnh của cả hai khá giống nhau.
Ba của cô và cha của
cháu đều có gốc hải tặc Thái Lan. Hai bà mẹ đều xuất thân từ những gia đình
Việt Nam nền nếp.
Cô là sản phẩm của
tình yêu chân chính, cháu là sản phẩm của hành vi hiếp dâm dã man.
Cha hải tặc của cô đã
trở thành một Phật tử thuần thành, sống đời đạo hạnh. Cha hải tặc của cháu
không tông tích.
Tình thương cao thượng
của người cha nuôi vô sinh hữu dưỡng và sự hy sinh cao cả của người mẹ chưa
được đền đáp thì đã qua đời làm cháu mãi ân hận.
Cháu mang điều đó tâm
sự.
Cô cho biết ở Thái mọi
người con trai trưởng thành đều thọ giới, phải qua một khoá tu ngắn hạn gọi là
Buatphra, có nghĩa là tu để trả ơn cho cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng
dục.
Ngay khi khoác lên
người chiếc y vàng, người con đã phần nào tạo được phúc báo hồi hướng, tích
phúc cho cha mẹ, còn sống hay đã mất.
Với người đã khuất
núi, đi tu còn mang ý nghĩa báo hiếu để người chết được siêu độ, ra đi thanh
thản.
Không bao giờ trễ nếu
người con muốn mang lại vinh hạnh cho cha mẹ, cho dù ở bên kia thế giới, bằng
đường tu tập gieo duyên với tam bảo.
Chú ơi! Chưa bao giờ
cháu tiếp nhận một lời khuyên chân thành hơn. Cháu sẽ chọn thời gian thuận tiện
vào dịp lễ Khao Phansa là mùa an cư của Phật tử, ghi danh một khóa tu ở chùa
Đại Già Lam Wat Nawamintararachutis tại Raynham, Massachusetts, để vừa ổn định
tinh thần, vừa tu tâm dưỡng tính.
Ngày qua ngày, hai đứa
trở nên gần gũi hơn. Cô khóc cho phận đời oan nghiệt của cháu.
Chúng cháu định ôm
nhau an ủi, theo thói quen, nhưng mặc cảm thất lễ của đứa con hải tặc ngăn lại.
Cháu tự nhắc nhở phải
tôn trọng phái nữ, bất kể là ai. Không cho phép “gien” hải tặc có cơ hội trỗi
dậy.
Cô thật lòng chia sẻ
về nỗi uất hận mang nửa giòng máu hải tặc của cháu.
Cháu nói rõ mục đích
đến Thái Lan chỉ để đưa người cha hải tặc ấy đối đầu công lý, cô tình nguyện
trợ giúp.
Hơn sáu tháng sống ở
Thái Lan đủ để chúng cháu hiểu nhau. Chưa ai mạnh miệng nói tiếng lòng nhưng cả
hai cảm nhận được mối quan hệ thân thiết đã vượt qua giới hạn bạn bè.
Mỗi khi có thời gian
rảnh rỗi cô hân hoan rủ cháu đi thăm viếng các danh lam thắng cảnh hoặc giới
thiệu các ngôi chùa nổi tiếng như chùa Wat Arun nằm trên bờ phía tây của sông
Chao Phraya, Thonburi, với lối kiến trúc đậm nét Thái và nhiều chùa khác nữa,
Wat Phra Kaeo, Wat Pho, Wat Benchamabophit Dusitvanaram, Wat Mahathat, Wat
Saket, Wat Traimit…
Có lần cô đưa cháu đến
trung tâm thương mại Central World, vào ngôi đền Trimurti. Chúng cháu cùng nhau
chắp tay quỳ trước tượng thần. Ra về, hỏi cô đã cầu nguyện gì? cô chỉ mỉm cười,
má ửng hồng, thẹn thùng không nói.
Sau này cháu được biết
đền thờ ấy là ngôi đền cầu tình duyên linh thiêng bậc nhất Bangkok.
Một ngày chủ nhật đẹp
trời chúng cháu dắt nhau về miền quê có phong cảnh hữu tình. Cháu đã ngỏ lời
yêu và thật sung sướng, cô đã chấp nhận.
Cuối cùng, thám tử đã
tìm thấy người cha sinh học của cháu. Đó là một nhà sư già khắc khổ, trụ trì
ngôi chùa nhỏ trong một làng chài hẻo lánh.
Thoạt tiên dân làng
không biết nhà sư này từ đâu tới nhưng khi ông trút bỏ tất cả khối tài sản
khổng lồ mang theo, phân phát cho mọi người trong và ngoài làng thì họ đã hiểu.
Rất ít người nhận quà
tặng nên ông đã dùng vào những việc công ích như xây cất cầu đường, trường học,
trạm y tế, nhà máy điện nước v.v… Cuộc sống của dân làng nhờ thế đã được cải
tiến.
Họ để yên cho ông tu
hành cùng vị sư thầy cho đến lúc thầy viên tịch, ông lên thay, trụ trì ngôi
chùa.
Thật ra ông chưa phải
là một nhà sư chính thống vì chưa được thọ giới theo luật đạo. Gọi ông là cư sĩ
thì đúng hơn.
Chúng cháu nhờ luật sư
thiết lập hồ sơ sẵn sàng đưa ông ra tòa hình sự. Cháu cũng đã thỉnh ý chú và
nhận được lời tư vấn đầy nghĩa tình.
Trở về Mỹ, cháu vẫn
còn lưỡng lự.
Tuần lễ trước, cháu
đến đón cô sau buổi học, thấy cháu trầm mặc ưu tư, cô đưa cháu vào thư viện của
trường đọc sách.
Chúng cháu cùng đọc,
cùng nhau nghiền ngẫm và thảo luận một vài đoạn trong cuốn sách của bà Ashley
Lawton (Nhà văn, nhiếp ảnh gia và diễn giả Kitô giáo). Người dịch Hà Anh:
Thiên Chúa biến sự dữ
thành sự lành. Vụ hiếp dâm đã mang tôi vào thế giới này. Tôi là con của Thiên
Chúa! Ngài đã làm cho tôi được nhận nuôi, và công trình huy hoàng của Ngài thật
tốt đẹp, vững chắc và kỳ diệu. Tôi ở đây để chia sẻ tin mừng, và kế hoạch Thiên
Chúa dành cho cuộc đời tôi. Tôi sống sót – không phải vì một sai lầm, mà nhờ
hồng ân Thiên Chúa.
…
“Tạng phủ con, chính
Ngài đã cấu tạo; dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên
con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười
mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí
ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.
Con mới là bào thai,
mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách
của Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.” (Thánh Vịnh 139, 13-16)
Sách Ngôn sứ Jeremiah
chương l, câu 5: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi; Ta đặt ngươi làm ngôn sứ
cho chư dân.”
Ngài biết tôi, Ngài đã
dựng nên tôi, Ngài yêu tôi. Bạn thấy đấy, tôi không phải là một sản phẩm lỗi.
Thiên Chúa biết điều gì sẽ xảy ra, ngài biết ngày được thành hình, và có một kế
hoạch lớn lao hơn cho tôi mà không ai có thể hiểu hết được. Thậm chí cha mẹ
nuôi của tôi cũng không thể hiểu được. Cha trên trời của tôi đã mặc khải cho
tôi ý nghĩa của mục đích mà Ngài đã ghi khắc vào cuộc đời tôi.
Những gì Ngài đã làm
cho tôi và thông qua tôi. Xin ngợi khen Thiên Chúa bởi sự mặc khải của Ngài
trong sách ngôn sứ Jeremiah: “Vì chính Ta đã biết các kế hoạch Ta định làm cho
ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa – kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương,
để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29, 11).
Và sau cùng, thêm một
nhận thức từ bài viết của Betty Michael Esene, một nghệ nhân trang điểm người
Nigeria, trích từ bài Lord is my Shepherd/ Chúa Trời là Người Chăn Dắt
Tôi:
“Mọi trẻ em đều có một
cuộc đời để sống, cách riêng, là những trẻ em được sinh ra do hậu quả của hiếp
dâm. Chúng có một tương lai tươi sáng và người kiến tạo là Đức Chúa Trời –
Người đã không đem chúng đến với thế giới này nếu không có mục đích. Các em
không phải là “sản phẩm” của những kẻ hiếp dâm phụ nữ, mà là một công trình sáng
tạo của Thượng Đế. Người đem các em đến vì một mục đích và để hoàn tất định
mệnh.”
Ra khỏi thư viện, hai
đứa nắm tay rảo bước trong sân trường Đại Học, mỗi người theo đuổi những ý nghĩ
riêng tư.
Lời cô gái nói với
chàng trai:
Thật sự tự đáy lòng,
bây giờ, em không xem anh như là “sản phẩm” của lão hải tặc hiếp dâm mẹ anh. Em
là Phật tử nhưng trong vấn đề này, giáo lý Ki Tô đã khiến em phải suy nghĩ.
Sự thụ thai do hiếp
dâm theo giáo lý đạo Phật sẽ là một đề tài lớn thách thức em tìm hiểu.
Em nhớ, năm 2015 Miss
Grand International tổ chức tại Thái Lan, Hoa hậu Anea Garcia trả lời trong
phần ứng xử rất chân thành làm khán giả và ban giám khảo xúc động:
“Mẹ tôi là một nạn
nhân của một vụ hiếp dâm và tôi ra đời như một việc ngoài ý muốn. Đó có thể là
một cú sốc với nhiều người, nhưng nếu như không có ông ấy thì tôi đã không thể
có mặt ngày hôm nay. Nếu được gặp người đàn ông ấy, tôi sẽ bước đến, ôm chặt
ông và nói rằng tôi tha thứ cho ông ấy. Vì đó là cách duy nhất mà tôi có thể
sống cuộc sống của mình trong sự thanh thản”.
Không phải ai cũng
rộng lượng như cô hoa hậu.
Em chỉ nghĩ rằng anh
là đứa con của định mệnh. Anh không có trách nhiệm phải chịu liên đới về những
gì đã xảy ra và có quyền được sống như mọi người lương thiện khác.
Giòng máu Việt anh
hùng luân lưu trong huyết quản sẽ cho anh sức mạnh triệt tiêu giòng máu nhiễm
độc hải tặc Thái.
Em mong anh có sức
khỏe, nghĩa là luôn luôn có được trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất và
tâm thần.
Chúng ta cùng có nửa xác phàm Thái nhưng chúng ta có cả một bầu trời Việt Nam trong tâm tưởng để có thể hãnh diện tuyên xưng “chúng tôi là người Việt Nam.”
Chúng ta đã khẳng định tình yêu. Em yêu anh và mãi mãi yêu anh.
Đến ngày lễ hội hoa
đăng Loy Krathongy, rằm Tháng Chạp Thái lịch, em sẽ rủ anh về thăm quê. Suốt
đêm trăng tròn, chúng ta sẽ cùng nhau đi thả đèn Krathong xuống sông, để cầu
cho tình nghĩa vợ chồng và tình yêu bền chặt.
*
Trên đây là chuyện
tình của đôi trẻ được sinh ra từ hoàn cảnh bi đát của một thời bất hạnh. Câu
chuyện được ghi lại, bằng lòng yêu thương và niềm tin vào tình nghĩa và phẩm
giá con người.
Cầu nguyện cho lứa đôi
hạnh phúc và chúc lành tương lai.
No comments:
Post a Comment