ĐẮNG CAY CỦA MỘT NGƯỜI TÙ.
Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh,
Mõ Báo…Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình, Xuất thân trong một gia đình nghèo. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng
làm đủ nghề : giữ xe đạp, quảng cáo cho gánh xiệc bán thuốc kiểu Sơn
Đông mãi võ, kèm trẻ tư gia, theo Đại Việt Duy Dân lên Ba nmê thuột làm cách mạng
được vài tháng bỏ xuống Long Xuyên dạy học ở các trường bán công Hòa Hảo được một
thời gian lại về Mỹ Tho mở lớp trường dạy đàn guitare tại gia, rồi lại bỏ trở về
Sài Gòn, ở đây ông được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn thương mến nâng đỡ hướng
dẫn vào con đường văn chương, tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý đã nổi tiếng, tiếp
theo là những tác phẩm Thằng Côn,Thằng Vũ, Con Thúy được độc gỉa yêu
thích, nhất là đối với những độc giả di cư, văn của ông rất lãng mạn đầy hoài
niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Tên tuổi của Duyên Anh
sáng chói trong lòng giới mộ điệu và từ đó sự nghiệp văn chương của ông
thăng tiến. Ngoài nghề viết văn, ông còn làm ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc
nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước
năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong,Tuổi Ngọc.....Những
tác phẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thục xã hội diễn tả
những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô
thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi.
Sau
biến cố 30 tháng 4, 1975, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca,
Mai Thảo, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh
Côn bị nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt
Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành.Trong Chiến dịch bắt
văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4, 1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh
cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù. Ông được ra tù
tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định
cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc
tài CS VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi
FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông còn làm thơ
và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở
thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997,
Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm.
Một chiều hè năm 1984 có lần giáo sư Nguyễn Ngọc Chân một người rất uyên bác,
đi du học Pháp từ thập niên 60 học về kinh tế, rất am tường về khoa học lịch
sử thế giới và thuộc sử Việt Nam. Vì qúy văn chương nên vợ chồng ông bà
đã mời chúng tôi dự bữa tiệc thân mật tại tư gia gồm có: Anh chị nhà
văn Duyên Anh, giáo sư Bạch Thái Hà và tôi là những khách đặc biệt vì bị tù CS,
vừa thoát khỏi chốn đọa đày đó ra bến bờ tự do. Chị Duyên Anh Nguyễn Ngọc
Phương là bạn cũ cùng quê với gia chủ; còn lại đều là những người bạn cũ
thời du học trước năm 75. Đây là những người thành đạt trong xã hội Pháp, may mắn
chưa thấy bom đạn trong chiến tranh và sự nghèo đói của xã hội chủ nghĩa.
Phòng khách nồng hương rượu, khói thuốc và rộn rã tiếng cười nói, làm tăng sự ấm
cúng bữa tiệc thân mật. Chất rượu mạnh đã thấm làm cuộc nói chuyện thêm sôi nổi,
họ tranh luận từ đề tài Việt Nam đến thời sự nước Pháp, rồi chuyển qua đề tài
văn chương Pháp. Nhà văn Duyên Anh giữ thái độ im lặng, khuôn mặt toát ra nét lạnh
lùng thâm trầm thoáng chút «thiền», sự im lặng đó ẩn chứa cao ngạo làm như
không thèm nghe, tôi hiểu trong con người đó đầy rẫy tự ti và tự tôn nhưng phần
tự tôn nhiều hơn. Anh giữ im lặng không phải vì ngại trước nhũng kiến thức uyên
bác của những nhà khoa bảng ; mà vì cho rằng những người này chỉ biết
trong sách vở thiếu sự từng trải cuộc đời. Khi câu chuyện chuyển sang đề tài xã
hội nước Pháp, nhân dịp đó anh Bạch Thái Hà hiện đang làm việc trong ngành xã hội
đã đề nghị muốn giúp anh Duyên Anh làm hồ sơ bảo hiểm an sinh xã hội để phòng
khi đau ốm mà bất cứ người nào sinh sống trên xứ Pháp hợp pháp đều được hưởng,
đó là quyền lợi mà luật pháp quy định. Khi nghe nói anh Duyên Anh tỏ thái độ bực
bội đứng lên phản đối và nói là :
«Một người đang khỏe mạnh không cần bảo hiểm !»
Mọi người nghe đều ngỡ ngàng, nhưng
ít ai biết anh Duyên Anh rất tin dị đoan, anh sợ nói đến bệnh tật khi đang khỏe
mạnh như thế là trù ẻo. Vì qúy tài nhà văn Duyên Anh nên anh Bạch Thái Hà không
buồn khi lòng tốt của mình bị hiểu sai. Ngày trước anh là cựu giáo sư trường đại
học chiến tranh chính trị và một số trường trung học ở Đà Lạt Sài Gòn trước năm
1975, và cũng là là một cựu sĩ quan ngành chiến tranh chính trị VNCH, một
cựu tù nhân chính trị CS. Qua được Pháp anh dấn thân vào con đường văn hóa và
phụng sự xã hội giúp rất nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Anh là người sáng lập
ra thư viện Diên Hồng ở Paris và làm đại diện cho tờ báo văn học nghệ thuật
Làng Văn ở Pháp. Anh rất được người đồng hương qúy mến, anh mất
ngày 23. 04. 2005.
Nhà văn
Duyên Anh vẫn còn đứng muốn nói thêm, thấy vậy gia chủ vội chuyển sang đề tài khác
anh mới ngồi xuống. Bữa tiệc kéo dài gần 3 giờ sáng, những người khách lần lượt
ra về chỉ còn lại vợ chồng anh Duyên Anh và tôi. Anh Duyên Anh muốn tôi ở lại
tiếp tục nói chuyện thơ văn, âm nhạc, và nghe anh tán chuyện đời. Mọi người đều
đi ngủ chỉ còn hai chúng tôi với những dòng tâm sự cho đến sáng, anh Duyên Anh
nói về những chuyện xa xưa và nói những chuyện nổi trên báo chí hải ngoại hiên
nay, anh nói anh rất ghét những lố lăng của một số người khoe khoang và những
trò bịp đời, những tổ chức đấu tranh cuội nên phê phán. Đêm gần sáng, giọng nói
của anh càng nhẹ nhàng kém sôi nổi. Ký ức tuổi thơ trên đất Bắc và những năm đầu
mới di cư vào Nam luôn ẩn trong tiềm thức anh cái thuở mà tuổi còn quá trẻ một
mình bơ vơ ở đất Sài Gòn phải tự lập thân sống bằng nhiều nghề, phải lóc lách
né tránh kẻ mạnh để tồn tại trong việc mưu sinh và phải cố gắng học hỏi trau dồi
kiến thức để tiến thân, do đó anh phải cứng rắn với bản thân để vượt qua những
khó khăn. Vốn đã thông minh, trời lại không phụ lòng người, may mắn đã đến với
anh gặp được những người tốt sãn lòng thương yêu giúp đõ anh trong đó có người
vợ hiền gia đình giàu có, những người bạn văn bậc thày sãn lòng chỉ bảo, cộng
thêm ý chí và nghị lực của chính anh đã giúp anh cơ hội vươn lên. Sự nổi tiếng
trong văn chương quá nhanh, đời sống sung túc dư giả tiền bạc rủng rỉnh
khiến anh tự mãn trở thành ngạo mạn ngông cuồng, xem thường kẻ khác thể hiện
qua những bài viết có chất cay nghiệt! Nhìn nét mặt mỏi mệt thoáng chút buồn bã
của một người có thời gây sóng gío trên báo chí năm xưa ở miền nam, và bị Hà Nội
cầm tù vì xếp loại cùng với những người khác là Những Tên Biệt Kích Văn Nghệ Cầm
Bút một loại cực kỳ nguy hiểm chống phá « chế độ ». Tôi chợt thở dài
như gợi chứa niềm thương cảm, tôi vẫn thích những tác phẩm của anh viết về tuổi
học trò như tác phẩm Phượng Vỹ về những khoảng đời hồn nhiên trong sáng. Chính
những giây phút này thể hiện trong anh nét thật hiền hòa như anh vừa bước ra khỏi
tháp ngà tiểu thuyết do anh dựng và sống thật với mình, lớp vỏ bọc kiêu kỳ để tạo
nét riêng với đời được rũ bỏ giống những nhân vật giang hồ trong tiểu thuyết của
anh gĩa từ dao búa.
Trong quán Đào Viên ở khu Á Châu Paris 13 vào năm 1985, chúng tôi nhà văn Duyên
Anh, nhà báo Đạo Cù Trần Tam Tiệp, nhà báo Phạm Hữu và tôi. Anh Phạm Hữu và tôi
uống café, còn anh Duyên Anh và anh Đạo Cù uống rượu đỏ. Nhà báo Đạo Cù
Trần Tam Tiệp là cựu Trung Tá Không Quân VNCH, khối chiến tranh chính trị, từng
tu nghiệp sĩ quan phi hành tại Pháp. Trước 1975 ông là một trong những chủ biên
tập san Lý Tưởng của Không Quân và là cây viết quen thuộc trong làng báo Miền
Nam. Sau Tháng Tư 1975, nhà báo Đào Cù cùng với một số nhà văn định cư tại Pháp
như Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp, Tô Vũ... ..
thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, và được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn
nhận đến nay. Ông kêu gọi quốc tế tranh đấu bảo vệ các nhà văn miền Nam bị cộng
sản bắt giam không xét xử. Chính là nhờ sự vận động bền bỉ của ông, tổ chức
"The International PEN Writers in Prison Committee (WiPC) đã dành cho các
nhà văn, nhà báo Việt Nam bị CS cầm tù nhiều trợ giúp ý nghĩa hoặc can thiệp bảo
trợ. Đạo Cù Trần Tam Tiệp bản tính hiền hòa, hay cười giọng nói từ tốn nhưng ít
nói. Từ sau năm 1975 ngòi bút của anh chuyên về mặt đấu tranh, anh đặt nặng phần
vận động quốc tế tranh đấu đòi tự do cho các văn nghệ sĩ bị CS cầm tù ở quê
nhà, và kêu gọi bằng hữu giang tay giúp đỡ những người bạn văn đang khốn
khó còn kẹt lại VN.
Về phần Duyên Anh và Phạm Hữu là hai con người đặc biệt, đa
tài cũng lắm tật, ngòi bút của họ sắc như gươm đao. Từ ngày đến Pháp nhà văn
Duyên Anh chưa xử dụng đao bút mà chuyên tâm vào viết truyện, anh việt rất khỏe,
văn chương vẫn mượt mà nhưng là lối hiện thực phê phán. Anh đang viết gần xong
cuốn: Một Người Mang Tên Trần Văn Bá, một giảng sư đại học, cựu chủ tịch Tổng Hội
Sinh Viên VN Paris dám từ bỏ vinh hoa phú qúy để về nước làm cách mạng giải
phóng quê hương thoát khỏi ách Cộng Sản nhưng bị thất bại, đã bị bắt và bị nhà
cầm quyền Hà Nội tử hình ! Riêng nhà báo, nhà văn Phạm Hữu tên thật là
Nguyễn Hữu Ích cựu giáo sư triết của các trường trung học danh tiếng Sài Gòn
năm xưa. Qua Pháp tị nạn, anh nghèo vì mê làm báo, anh đi làm thêm đủ nghề để lấy
tiền nuôi báo, yêu tự do, trung thành với lý tưởng, tận tụy với văn chương chữ
nghĩa, cho đến khi nhắm mắt. Anh muốn dùng ngòi bút để cảnh tịnh những những kẻ
hai lòng ngả nghiêng quốc cộng. Cái ngông của Phạm Hữu nặng hơn Duyên Anh, anh
bất cần đời hơn Duyên Anh, anh thà để bụng đói nhất định không thèm ăn những
cao lương mà một số người vì ngán ngòi bút của anh chiêu đãi. Anh ăn nói sống
sượng hơn, bốp chát thẳng vào mặt những người mà anh cho là «rởm đời» hay
khoe khoang, anh nặng tay với đám con buôn chính trị, bọn đấu tranh bịp! Nhưng
lại rất khiêm cung, lễ độ với những người tử tế. Nhà báo Phạm Hữu bảo với
tôi: «Ông Đạo Cù bây giờ tâm trí chỉ nghĩ đến cách giúp đỡ các anh em, chiến
hữu trong nước mà chẳng quan tâm những việc nhố nhăng ở đây ! Còn Ông
Duyên Anh định ăn no ngủ kỹ sao vẫn chưa lên tiếng nên lũ chuột mới lộng
hành ?!». Nhà báo Đạo Cù chỉ cười nhưng không nói, còn nhà văn Duyên
Anh cười hăng hắc nói:
«Ông lại tháu cáy rồi ! Làm sao ông biết những điều tôi đang làm, đang
viết ?».
Nhà văn Duyên Anh
nói tiếp :
«Tôi mời các ông
ra để uống rượu nghe tôi đọc thơ »,.
Nói xong anh cầm ly rượu uống cạn, rồi khẽ ngâm bài thơ của mình, nhìn anh
thấp thoáng hình ảnh những thi sĩ thời xưa trong sách cổ. Anh tặng chúng tôi tập
thơ Tù mới in, tập thơ trình bày đẹp. Anh Phạm Hữu hỏi Duyên Anh:
«Ông có cần tôi giới thiệu trên báo không ? »
Duyên anh trả lời:
«Không, thơ tôi chỉ dành tặng
cho những người tôi qúy.». Trong lúc các anh Duyên
Anh, Đạo Cù và Phạm Hữu nói chuyện, tôi mở tập thơ ra đọc vài bài và cảm thấy
bùi ngùi, ý thơ sâu sắc, tôi chẳng hỏi anh chuyện tù mà miên man về nét đẹp của
thi ca chứa đầy nước mắt và thấy mình qua những dòng cảm xúc mà anh đã viết
trong lời dẫn nhập mở đầu trong tập Thơ Tù, nhà văn Duyên anh viết:
«….Tôi làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê tông. Tôi
bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi. Chấn song sắt của khám chí Hòa nghĩ thơ.
Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ.Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc
thơ. Quên cũng lắm, sai cũng nhiều. Bằng óc, óc tôi là giấy, là bút, là mực.
Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác vì thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta
cấm tôi dùng tay để viết. Tôi dùng tay để gãi ghẻ. Vừa gãi ghẻ vừa làm thơ. Cần
gì phải giấy bút. Cần gì phải cảm hứng. Nỗi ngứa đã là cảm hứng tuyệt vời. Tôi
làm thơ và tôi gãi ghẻ. Bởi vì trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ…..Thơ của
tôi chưa diễn tả nổi «cái lý tưởng và bổn phận» mà tôi đòi hỏi ở thi sĩ. Nhưng
ít ra nó đã là bước đầu của người viết văn ồn ào, huyênh hoang ngày xưa đã lớn
lên từ đáy hầm phân khổ sai cực hình để biết hững hờ với thế sự hôm nay…»
Ngoại trừ những bạn văn nghệ rủ đi uống cafê, uống rượu đỏ, thường thì
anh Duyên Anh hay đi với chị nhà. Có lần nhạc sĩ Phạm Duy từ Mỹ qua Paris anh gọi
tôi cùng anh Mai Trung Ngọc chủ nhà sách Nam Á ra khu Latin uống café nghe Phạm
Duy tán chuyện đời. Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà văn Duyên Anh rất hợp khẩu, hai người
kể những câu chuyện cười vỡ bụng. Ở những lần gặp khác tôi được anh Duyên Anh tặng
băng nhạc Ru Đời Phù Ảo, đây là những ca khúc hay giai điệu nhẹ nhàng, lãng mạn,
ca từ còn ẩn chứa nhũng lời than về thiên đường xã hội chủ nghĩa và đất nước tạm
dung. Băng nhạc gồm 12 ca khúc do nanh viết và hai bài thơ được các bạn phổ. Vũ
Trung Hiền phổ bài thơ Sài Gòn Ra Đường, Phạm Duy phổ : Có Bao Giờ Em Hỏi
được đổi tựa từ bài thơ : Bây Giờ Em Ơi. Ca từ «Em» ở trong bài thơ này
không phải là bóng hồng ngoài đời, mà là ẩn dụ «chính khách hết thời ». Đoạn
cuối bài thơ:
« Em, bao giờ em khóc
Ngơ ngác vì chiêm bao
Chưa kịp mê tam cúc
Xuân hồng đã trôi mau
Chưa kịp hôn môi tết
Tháng giêng son phấn sầu
Bây giờ em mới biết
Em đã chết từ lâu…. »
(Paris 1984)
Câu nhạc cuối da diết «Em đã chết từ lâu» được lập lại nghe mà xót
xa ! Mặc dù có một thời Duyên Anh dạy nhạc nhưng chỉ là dạy lý thuyết căn
bản, và lớp căn bản Tây ban cầm. Muốn viết được nhạc phải học thêm về sáng tác.
Trong một bữa họp mặt vài người bạn văn nghệ, rượu đã thấm môi nhạc sĩ Lê Trạch
Lựu tác giả nhạc phẩm tiền chiến Em Tôi, cười đùa nói :
«Duyên Anh chỉ có tài về văn chương, biết đàn hát chứ đâu biết sáng tác nhạc !».
Câu nói đùa này làm
anh tự ái nên đã tìm mua một số
sách nhạc bày bán ở nhà sách Nam Á mang về nghiên cứu cách viết trên các bản nhạc.
Sau khi sáng tác được một số bài anh có hỏi qua nhạc sĩ Lam Phương, nhạc sĩ Lam
Phương khen và nói thêm về nghệ thuật sáng tác nhạc. Chất nhạc đã nằm sãn trong
máu của Duyên Anh ngay từ thuở nhỏ, anh lại có căn bản vững vàng về nhạc lý và
có một thời dạy đàn guitare thuở còn trẻ. Lòng tự ái đã giúp anh quyết tâm, nó
bùng cháy thúc đẩy nguồn nhạc trong anh dâng trào nên sáng tác rất nhiều. Trong
số trăm ca khúc, có rất nhiều ca khúc mang chất bán cổ điển thính phòng
điển hình là ca khúc Giọt Nước Mắt Quê Hương. 12 ca khúc tuyển âm hưởng bán cổ
điển trong cuốn băng mang tựa đề Còn Thoáng Chiêm Bao đã được thực hiện trước
ngày anh bị nạn nhưng chưa phổ biến. Những ca khúc: Rồi Em Ngủ Võng Đong Đưa, Vỗ
Về, Phiền Nhung Gấm, Giọt Nước Mắt Theo Anh, Soi Trong Dòng Mắt, Sinh Nhật, Em
Về, Hở Em ?, Dặm Dài Xế Trưa, Sầu Cỏ Lá, Còn Thoáng Chiêem bao, Gọi Cô Đơn
Đưa Tôi Về Cuối Lối, Tôi Nghe Mình Đã Hư Hao. Do ca sĩ Quỳnh Dao trình bày, Hòa
âm : Bernard Gerard, Vĩ cầm : France Dubois, Hồ cầm :
Hubert Warron, Phong cầm : Gilbert Roussel, Lục huyền cầm :
Serge Eymard, Dương cầm : Bernart Gerard.
Vào hè năm 1990 nhà văn Duyên Anh nhờ một người bạn mang đến tặng tôi tập hồi ký
Trại Tập Trung được viết trước khi anh bị nạn. Tập sách bìa cứng,dày 485 trang
do Xuân Thu ở Cali, Hòa Kỳ xuất bản năm1988. Cầm tập hồi ký tôi vô cùng xúc động
vì anh Duyên Anh bây giờ thể chất khác xưa phải ngồi xe lăn, ăn nói khó khăn.
Anh phải cố gắng lắm mới tập cầm bút tay trái để viết lại và chữ vẫn đẹp !
Mở trang đầu nhà văn Duyên Anh viết :
«Có kẻ mê giang hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc vali của một
lãng tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu
ông ta tiên tri cuộc đời vẫn còn những tuyến đường Moscou-Goulag Sibérie, Suối
Máu-Phước Long, Kà Tum- Bù gia mập, Long Giao, Sơn La, Trảng Lớn- Hà Nam Ninh,
Gia Lai-Vĩnh Phú, Wachinton-Ha Noi, Hilton, Nhà Mình- Sở Công An, Đề lao Gia Định,
Chí Hòa…..,di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ còn
những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo còi, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lãng
tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng ực ngang họng súng AK canh chừng,
ông ta, chắc chắn sẽ chán chuyện lãng du. Ở thời đại tôi và trên quê hương tôi
đã có những chuyến đi đã trùm lấp định nghĩa vô định và thống khổ mà tôi không
sợ lộng ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định nghĩa làm người. Rồi sẽ có hồi
ký của một tù nhân viết chính xác về chuyến đi Sài gòn-Hànội được chào mừng bằng
những trận mưa máu đá củ đậu, củ khoai……..Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù
hận một cách can đảm và kiên nhẫn, khinh thường hình phạt của thù hận, bước qua
nó mà đi mà tồn tại để tặng nhân loại một định nghĩa làm người, nhân loại đã
khôngnhìn thấy hình ảnh tuyệt vời của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ,
nói về họ….»
Tôi bỗng lạnh toát vì chợt nhớ cái
đói trong tù mỗi người tù ăn 15 kg một tháng gồm có bắp sắn lác bobo, và một
tuần được một chén cơm, một tháng 3 muỗng muối. Muôn đời cái đói vẫn là nỗi sợ
hãi của con người, nhà cầm quyền Hà Nội dùng chính sách bao tử để trị dân, dùng
cái đói để kiểm soát và sai khiến người tù. Tùy theo nghị lực và sức khỏe của mỗi
tù nhân, những ai không chịu nổi cơn đói cái đói sẽ hành hạ, miếng ăn sẽ làm họ
trở nên mềm yếu !Trong trại tù Xuyên Mộc chia làm 3 khu : khu A nhốt những
sĩ quan quân đội, khu B nhốt tù chính trị, khu C nhốt tù hình sự. Một đội khoảng
25 người, riêng đội hình sự được cài vào khu A và khu B. Nhà văn Duyên Anh ở
khu B buồng 8 đội 29 «đội văn nghệ sĩ». Những tin đồn trong trại tập
trung anh làm «antenne» khiến cho những người bạn tù ngần ngại !
Năm 1992 dịp tết cộng đồng VN ở Paris tôi gặp anh Châu Văn Lộc, người đã gia nhập
Hướng Đạo VN từ năm 1948. Anh đã từng tham dự trận An Lộc và trận những lớn của
Tiểu Đoàn 2 / 43 Sư Đoàn 18, đây là tiểu đoàn tự thủ cuối cùng của
trận Long Khánh vào những ngày cuối tháng tư năm 1975. Anh Lộc ở VN mới qua
Pháp sau 11 năm bị tù, anh có thời bị tù chung phòng với nhà văn Duyên Anh. Anh
Châu Văn Lộc nói:
«Hồi mới qua đây tôi có gặp anh Duyên Anh ngồi xe lăn ở nhà thờ giáo xứ
Paris, thấy tôi anh ấy vui vẻ mời về nhà chơi, nhưng bận quá tôi
hẹn anh ấy khi khác».
Anh Lộc còn kể
cho tôi hồi ở Xuyên Mộc năm 1979 tại phòng 8 khu B cùng chung với cụ Hồ Hữu Tường
và ông Huỳnh Trung Lộc, Duyên Anh và anh Châu Văn Lộc…, vì bản tính kiêu ngạo
nên Duyên Anh không nói chuyện với hai cụ. Khi nghe tin đồn Duyên Anh làm ăng
ten tôi đã đến tận mặt hỏi Duyên Anh:
«Anh đã từng viết Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Người thày giáo không những giảng
dạy cho học trò biết những kiến thức văn hóa, mà còn dạy cho họ lòng yêu nước
như thế nào. Sao bây giờ anh lại làm như vậy ?»
Duyên Anh trả lời : «Không phải như tin đồn, tôi không có làm
như thế đâu anh Lộc ơi !»
Anh Lộc kể tiếp:
«Thời gian sau chúng tôi cùng biên chế sang phòng 5 ở chung một phòng tôi thấy
Duyên Anh đi lao động bình thường, sống thầm lặng, ít tiếp xúc với mọi người.»
Ở trong tù những khẩu hiện :«học
tập tốt, lao động tốt» sẽ được cứu xét mau chóng cho về đoàn tụ với gia đình là
bài học thuộc lòng của tù nhân, đó chỉ là cái bánh vẽ của nhà cầm quyền Hà
Nội! Lời mật ngọt đó đã quyến rũ được một số người nhẹ dạ cả tin muốn về sớm
nên thường tỏ ra hăng say trong lao động biểu lộ sự tích cực tong «học tập »
nhằm lấy điểm với cán bộ trại giam hy vọng được cứu xét. Sự tích cực đó cũng là
để khỏa lấp nỗi sợ hãi bị CS trả thù sẽ bị tù lâu hơn.
Con người và tác phẩm của Duyên Anh đã được nhiều người viết, về những cái hay
cái đẹp trong tác phẩm, và cả những điều không tốt gây xôn xao dư luận.
Sau ngày nhà văn Duyên Anh gặp nạn vài năm, anh lại tặng tôi thi phẩm mới
là : Em Tôi Sài Gòn Và Paris, tủ sách Người Dân ở Cali xuất bản. Trang viết
về thi sĩ :
« … Nói thật, thơ mà đề giá bán
là hết hay rồi. Thơ óng ả mấy, kênh kiệu mấy, kiêu sa mấy vẫn hết . Khi thơ
dính vào nợ áo cơm, nó bị trả đắt hơn cả hình hài của thi sĩ» !
Bài Lưu Đày
(tặng Kiều Vĩnh Phúc, bạn tôi)
«Ta đến đây đành ở lại đây
Cuối đời thấm thía kiếp lưu đày
Nghẹn ngào sách vở cùng trang mục
Chữ nghĩa vèo bay như lá bay
Những tưởng tài năng vần thế cuộc
Nào ngờ tai họa giáng kê vai
Đường người chó sói nhe răng nhọn
Nghe buốt đau thương cả đế giày
Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa
Ngọc đá ganh đua rộn dũa mài
…. »
Vào tháng 9 năm 1998 nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, nhà thơ Nguyễn Phúc Sông
Hương và một số thi hữu ở Sacramento đã tổ chức đại hội Các Nhà Thơ Hải Ngoại
có mời tôi sang nói chuyện về đề tài : Tính Nhạc Trong Thơ. Nhân dịp đó
tôi đi thăm các văn hữu ở Cali, trước ngày trở về Paris các văn nghệ sĩ San
José đã tổ chức họp mặt thân hữu tiễn tôi : Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Diên Nghị Nhà
thơ Duy Năng, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Song Linh, Nhà thơ Nguyên Phương, Nhà
thơ, Dạ Chi, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Hà Ngọc Lân, Nhà thơ Phạm Ngọc, Nhà văn
Nhật Thịnh, Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, nhạc sĩ Phạm Đức Huyến, Nhà báo Tô Ngọc, Nữ sĩ
Trùng Quang, Nữ sĩ Đinh Việt Liên, nhà văn nữ Khuê Dung, Nhà thơ nữ Huệ Thu,
nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, Nhà thơ nữ Nguyễn Phan Ngọc An, Nhà thơ nữ Sương
Mai.vv…Chiều hôm đó mỗi người hiện diện đều đọc thơ văn và kể chuyện. Nói về
Chân Thiên Mỹ trong sáng tạo của giới nghệ sĩ, thi sĩ Hà Thượng Nhân đã kể một câu
chuyện cho các bạn cùng nghe về cái tài và cái ngông của nhà văn Duyên Anh. Thi
sĩ Hà Thượng Nhân :
«Đã lâu lắm trước năm 75 có một lần
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tổ chức một cuộc họp báo mời các Chủ Báo, trong
đó có một số báo quy tụ những cây viết chuyên đánh phá. Không biết ban tổ chức
sắp đặt chỗ thế nào mà xếp nhà văn Duyên Anh ngồi cạnh Trung Tướng Tổng Cục Trưởng
Trần Văn Trung. Với bản tính ngông và bướng, bất cần thiên hạ của Duyên Anh làm
cho những sĩ quan trong ban tổ chức vừa sợ vừa lo lắng. Ký giả Lô Răng Trung tá
Phan Lạc Phúc phải chạy đến tôi cầu viện. Tôi nói :
«Anh và tôi đồng cấp thì nói cũng như nhau ! », Ký giả Lô
Răng : «Không , anh phải đến thì mới êm được.». Khi tôi đến gặp
Duyên Anh, tôi nói :«Anh là nhà văn tức là ngưòi sáng tạo những giá trị
Chân Thiện Mỹ, như anh biết kẻ cướp hay giang hồ chúng cũng có luật triêng và
cũng biết có người trên kẻ dưới. Chúng ta là người cầm bút không thể nào sử sự
thua kẻ giang hồ ?»Nhà văn Duyên Anh vui vẻ đến chỗ ngồi khác nhường lại
chỗ cho ông Trần Viết Sơn».
Nghe câu chuyện tôi nhớ lại chuyện mà ký giả Đặng Văn Nhâm đã có lần kể cho tôi
nghe những chuyện trong đời làm báo của anh trước năm 1975 ở sài Gòn, anh cũng
có những lần chạm trán tóe lửa với nhà văn Duyên Anh, nhưng sau đó cả hai đã
hóa giải những bất đồng.
Nhà văn Duyên Anh những năm cuối đời có tuổi, yếu đuối bệnh tật, đi đứng
nói năng khó khăn nhưng vẫn không nghĩ cho bản thân mình mà vẫn hăng say sáng
tác. Anh viết bằng tay trái, sáng tác thêm nhiều tác phẩm cho đời xứng đáng là
một nhà văn lớn của Việt Nam.
Vào giữa tháng 11 năm 2016 tôi có hẹn với các bạn ở một nhà hàng ở khu Á Châu
là bác sĩ Nguyễn Bá Linh, giáo sư Nguyễn Ngọc Chân và giáo sư Nguyễn Văn
Sâm ở Cali qua Paris nghiên cứu thêm về lãnh vực chuyên môn ở Viện Viễn Đông
Bác Cổ, đồng thời được chúng tôi mời diễn thuyết đề tài Chữ Nôm do Câu Lạc Bộ
văn Hóa VN Paris tổ chức. Tình cờ gặp người con dâu út của nhà văn Duyên Anh,
cháu Vân Phương đến chào chúng tôi và mời tôi và giáo sư Nguyễn Ngọc Chân đến
nhà. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2016 tôi và anh Nguyễn Ngọc Chân được người con út
của nhà văn Duyên Anh là cháu Vũ Nguyễn Kim Sơn. Cháu Vũ Nguyễn Kim Sơn lái xe
đến gare Bourg La Reine đón về nhà ở Robinson ngoại ô Paris. Cháu Vân Phương vợ
của Kim Sơn đã làm cơm sẵn chờ chúng tôi đến dùng cơm. Trong câu chuyện với vợ
chồng Kim Sơn chúng tôi nói chuyện về nhà văn Duyên Anh và cho hai cháu biết
tôi đang viết cuốn Con Đường Văn Nghệ ghi lại những tâm tình về những cuộc gặp
gỡ các văn nghệ sĩ từ trước năm 1975 đến nay, trong đó có nhà văn Duyên Anh.
Trong câu chuyện chúng tôi tránh những điểm nhạy cảm qua tin đồn. Nhưng thật
không ngờ hai cháu Kim Sơn Vân Phương rất thông thoáng, cởi mở, lập lại những
câu nói, những tin đồn về Bố một cách tự nhiên, thoải mái. Có lẽ anh chị
còn quá trẻ, lại sống ở Pháp đã lâu nên hấp thụ được văn hóa của người Pháp là
tôn trọng sự suy nghĩ của người khác. Vũ Nguyễn Kim Sơn người mà nhà văn Duyên
Anh kỳ vọng sẽ tiếp nối chí hướng anh làm văn sĩ nên đã đặt bút hiệu là Thiên
Mã, nhưng Kim Sơn chán sự tranh đua nên lánh xa chốn xôn xao làm khuấy động tâm
hồn. Kim Sơn cho biết đã học được ở bố rất nhiều về tính kiên nhẫn, và cách sống
«biết an lạc ». Những năm cuối đời nhà văn Duyên Anh sống «rất thiền»,
lòng không thù hận, anh dành những ngày tháng còn lại cho sáng tác. Anh nói với
Kim Sơn :
«Bố ra đi không mang theo gì, để lại tất cả những tác phẩm tâm huyến này cho
con. Đây là món quà qúy báu nhất của bố ».
Vợ chồng Vũ Nguyễn
Kim Sơn rất trân trọng tặng phẩm đó, nhưng vì qúy mến chúng tôi nên đã đưa vào
xem tủ sách gồm những bản thảo truyện ngắn, tiểu thuyết, nhạc phẩm…được anh viết
bằng tay trái xếp thành tập ngăn nắp và chưa hề phổ biến. Chúng tôi chỉ nhìn tủ
sách mà không mở bản thảo ra xem vì trân trọng người đã khuất.
Tôi qúy nhà văn Duyên Anh ngoài
tài năng còn ở một nghị lực phi thường. Bản tính nghệ sĩ trong anh quá mãnh liệt,
tâm hồn anh là một khoảng rộng chứa sự bao dung và tha thứ. Anh chọn cho mình một
con đường riêng để đi, những điều anh nói phát ra từ con tim mà người đời chưa
quen hay không muốn nghe về triết lý sống. Đó là quyền sống và sự tự do nên anh
đã dung nạp cả thiên đường lẫn địa ngục mà trên đời chưa có người nào đặt chân
đến !
Paris 05. 12. 2116
No comments:
Post a Comment