HÌNH MINH HỌA |
Bác Sĩ Bạch Thế
Thức
1975. Con trai lớn của bác sĩ Bạch Đình Minh là bác sĩ Bạch
Thế Thức, khóa 21 quân y hiện dịch, đang phục vụ trong trại ngoại khoa tại Tổng
y viện Duy Tân, Đà Nẵng.
Bác sĩ Bạch Thế Thức đã trở thành một
bác sĩ giải phẫu vì lý do sau đây: Tết Mậu Thân 1968 ,Việt Cộng đánh 41 tỉnh
cùng một lúc.Chúng đã chiếm được nhiều nơi trong thành phố Sàigòn.Các chiến sĩ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang cố gắng đánh bật chúng ra. Nhiều chiến sĩ hy
sinh. Xe hồng thập tự ùn ùn chở thương binh tới Tổng Y viện Cộng Hòa. Các bác
sĩ và y tá khẩn cấp làm việc không kịp
thở.
Anh Thức thấy rất nhiều thương binh,lẫn
tử sĩ, chật ních bên trong phòng cấp cứu
và cả bên ngoài nữa,trong số đó có một chiến sĩ
thủy quân lục chiến bị thương nặng, đang quằn quại nằm, chờ được cứu chữa.
Khi đó Anh Thức đang học APM ở Khoa học Đại Học, nhưng trù trừ chưa biết rồi sẽ học ngành nào. Đứng trước cảnh này, anh Thức lập tức quyết định:_
“Mình phải học Bác sĩ,
và phải trở thành một bác sĩ giải phẫu,để
sau này có thể cứu giúp được người,
trong những hoàn cảnh thập tử nhất sinh
như thế này.”
Trong những ngày cuối tháng 3-1975, Đà Nẵng
trong một tình trạng kinh hoàng. Đã
có thể hơn cả 100.000 người chạy từ Quảng
Trị và Huế vào. Người ở Đà Nẵng cũng đang cuống cuồng chạy đi. Bằng bất cứ
phương tiện nào. Dân dùng những phương
tiện dân sự như tầu buôn, thuyền.
Lính dùng phương tiện của quân đội như
máy bay , tầu chiến, xuồng máy, vân vân… Rồi tới mức, lính và dân không còn
phân biệt nữa. Dân cố leo lên tầu lính. Và ngược lại, lính xuống cả thuyền đánh
cá, ghe nhỏ của dân.
Các đơn vị tan rã vì không còn bom đạn để
xử dụng.
Ngay cả vị tướng Tư lệnh Quân đoàn I cũng
không còn một toán quân nhỏ trong tay.
Xin mời đọc phần dưới đây của Đại tá Nguyễn
Thành Trí Tư lệnh phó Sư Đoàn Thủy quân
lục chiến để hiểu rõ tình trạng bấy giờ.
Khoảng 23:00 giờ hơn, một Quân Cảnh Thủy
Quân Lục Chiến bước vào Trung Tâm Hành Quân báo cho tôi hay có Tướng Ngô Quang
Trưởng đến. Vì không được báo trước nên tôi vội vã bước ra thì gặp ngay Tướng
Ngô Quang Trưởng trước cửa Trung Tâm Hành Quân. Cùng đi với Tướng Trưởng gồm có
Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Sư Đoàn 1
Không Quân, Đại tá Phước, Không Đoàn trưởng Không Đoàn 51 Trực Thăng, Đại tá
Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên và cuối cùng là Đại úy Hòa, Tùy viên của
Tướng Ngô Quang Trưởng.
Tôi chào tất cả các vị và mời vào xa
lông của Trung Tâm Hành Quân. Tướng Ngô Quang Trưởng mở lời nói với tôi:
“Họ đã đi hết cả rồi, bây giờ
anh em Thủy Quân Lục Chiến ở đâu thì tôi theo đó”.
Sau một hồi im lặng, ông quay qua nói với
Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh và hai vị Đại tá:
“Riêng các anh không còn nhiệm
vụ gì ở đây thì có thể đi đâu tùy ý”.
Không khí thật nặng nề và buồn thảm.
Không ai nói lên được điều gì trong hoàn cảnh tế nhị và khó xử này. Mọi người
như đang theo đuổi một ý nghĩ riêng. Cuối cùng Tướng Nguyễn Đức Khánh và hai vị
Đại tá đứng lên chào Tướng Ngô Quang Trưởng để ra trực thăng. Tướng Trưởng bắt
tay từng người nhưng không quên dặn riêng Đại tá Phước là nếu liên lạc được các
“toán nhảy” (Lôi Hổ) nào còn đang hoạt động ở ngoài, thì cố gắng bốc họ về đơn
vị. Tôi tiễn ba vị ra khỏi cửa Trung Tâm Hành Quân và chúng tôi chia tay.
Khi tôi trở vào Trung Tâm Hành Quân thì
Tướng Ngô Quang Trưởng nói ông thấy trong người không được khỏe. Tôi cho bắc một
giường xếp quân đội để ông nằm nghỉ lưng tạm cạnh xa lông đồng thời cho mời một
Bác sĩ trực của Tiểu Đoàn Quân Y Thủy Quân Lục Chiến đến săn sóc và tiêm thuốc
khỏe cho ông. Sau đó tôi trở qua tiếp tục theo dõi cuộc rút quân của Lữ Đoàn
369 Thủy Quân Lục Chiến, cạnh các máy truyền tin của Trung Tâm Hành Quân Sư
Đoàn.
Khoảng 24:00 giờ, Tướng Ngô Quang Trưởng
hỏi mượn một xe Jeep và tài xế để đi thăm một vị Giám Mục nào đó ngoài Thị xã
Đà Nẵng. Tôi tỏ ý cản ngăn, viện lý do không có an ninh. Nhưng Tướng Trưởng một
mực nói không sao đâu. Tôi đành chỉ thị cho Tiểu Đoàn Tổng Hành Dinh, Thủy Quân
Lục Chiến, cung cấp một xe Jeep cho Tướng Trưởng, một xe Jeep thứ hai cho toán
Quân Cảnh Thủy Quân Lục Chiến dẫn đường và một xe GMC cho Tiểu Đội hộ tống, đặt
dưới quyền sử dụng của ông. Khi ông đi rồi tôi tự trách sao không cố thuyết phục
để giữ chân ông lại. Nếu có chuyện không may xảy ra, tôi sẽ ân hận suốt đời. Dù
sao ông cũng là vị Tướng Tư Lệnh của một Quân Đoàn, lúc nào cũng phải được bảo
vệ tối đa và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói chung, giờ đây phải có trách nhiệm
đó... Khoảng một giờ sau thì ông trở về
và nằm nghỉ trên giường bố. Khi đó tôi mới cảm thấy yên tâm.
(Trích Ngày Tháng Không Quên,Chiến Sử Thuỷ Quân Lục Chiến , 2007)
Trong lúc mọi người chỉ còn lo chạy,
không ai có thì giờ lo cho người khác , thì Bác sĩ Bạch Thế Thức, lại chỉ đứng
trong phòng mổ, chuyên
tâm giải phẫu chữa trị cho những người bị thương , bất kể là lính hay là dân.
Một người bạn cùng lớp, là bác sĩ Ngọc,
thấy tình trạng cấp bách, rủ bác sĩ Thức
bỏ hết đi, để cùng chạy . Bác sĩ Thức từ chối, khiến bác sĩ Ngọc phải
phát khóc, vì nghĩ khi vào tới Sài Gòn sẽ không biết nói sao với vợ của bác sĩ
Thức là bác sĩ Thúy San đang có đứa con đầu lòng được bốn tháng.
Khi biết được câu chuyện này tôi sực nhớ
đến một nhân vật có lòng vị tha rất lớn , chuyên nghĩ đến việc nghĩa, trong khi
cả thiên hạ không còn ai lo đến chuyện gì cho người khác.
Khổ thân làm việc nghĩa.
Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề, qua nhà
người bạn cũ, vào chơi. Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng: “Bây giờ thiên hạ ai còn thiết đến việc
“nghĩa”, một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có thấm
vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn
không?”
Mặc
Tử nói: “Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một đứa cầy, chín đứa
ngồi ăn không, thì đứa cầy chẳng nên
càng chăm cầy hơn lên ư? Tại sao thế? Tại
đứa ăn không thì nhiều , đứa đi cầy ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai chịu làm việc
nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm lắm mới phải, có đâu lại ngăn tôi
như thế!”
Trời không phụ lòng người.
Tháng ba
1975, Đà Nẵng mất.Bác sĩ Thức chạy vào được Sài Gòn.Vào những ngày cuối
tháng tư, dân số thủ đô khoảng 2,000,000 người. Ai cũng mong thoát. Nhưng với
dân số đông như vậy, hy vọng thoát được cho mỗi người là một phần triệu.Thoát
cách nào cũng được, đường bộ, đường thủy, phi cơ.Ngày 29-4, trong tình trạng
tuyệt vọng chẳng làm sao tìm ra được phương tiện để chạy, bác sĩ Thức chán quá,
nằm ngủ trong căn nhà ở Khánh Hội. Anh Thức tuy ở quân y nhưng lúc nào cũng
thích không quân. Anh nghiên cứu đủ loại máy bay. Anh có tài lạ, là dù ngồi trong nhà hay làm trong bệnh viện,chỉ cần nghe tiếng máy
bay xa xa, ở trên trời, là anh đã biết ngay đó là chiếc máy bay gì.
Trong lúc đang ngủ trưa, giữa niềm tuyệt vọng,
anh chợt nghe tiếng máy bay hơi lạ trên bầu trời Khánh Hội.Anh hiếu kỳ, vùng dậy,
chạy ra ngoài đường ngó lên trời. Xong,
anh cúi đầu nhìn lại xuống đất.Anh thấy mọi người rùng rùng chạy.Anh chợt nghĩ,
tại sao mình không tiếp tục đi tìm đường
chạy, mà lại nằm ngủ một cách vô lý như thế này?Anh lấy chiếc xe gắn máy Honda chạy đi thám sát bến Bạch Đằng. Rồi lại chạy về.
Anh dắt mẹ và vợ là bác sĩ Nguyễn Thúy San, vốn
học cùng lớp, và đứa con đầu lòng mới 4
tháng , cộng thêm 5 đứa em, tất cả là 9 người chạy trở lại bến Bạch Đằng. Trời xui đất khiến, mới tới Thương khẩu
ở Khánh Hội, chợt thấy một xà lan Mỹ
không biết từ đâu chạy tới, tắp vào bờ . Anh kéo cả gia đình bước xuống. Gia
đình Anh là một trong những người đầu tiên đặt chân lên sàn xà lan này. Thẳng
ra biển.
Bác sĩ Trần Xuân Dũng
(Trích Văn Học Quân Đội )
No comments:
Post a Comment