Tìm Dấu Chân Xưa
Ngày tháng chờ đợi cho quyết định tương
lai của chúng tôi, những y, nha, dược sĩ của khoá 21 hiện dịch cũng đã đến dù
biết chắc rằng con đường trước mặt sẽ chờ đón chúng tôi với nhiều chông gai hơn
là con đường trải thảm. Chiến cuộc đã đến hồi cam go mà phe miền Nam đang phải
chịu nhiều thiệt thòi vì sự gian trá của phe địch và sự thiếu thiện chí của phe
đồng minh; chúng tôi vẫn nôn nóng muốn sớm biết tương lai của mình qua qua việc
chọn nhiệm sở vào một ngày vào hạ tuần tháng 2 năm 1975 dưới sự chứng kiến của
Y-sĩ Đại tá chỉ huy trưởng và các Sĩ quan cán bộ của Tiểu đoàn Sinh viên.
Tình hình ngoài chiến trường đã căng thẳng,
nhu cầu của quân y sĩ cho các binh đoàn nhiều hơn các quân y viện. Chỉ có một
vài nhu cầu hiếm hoi ở Tổng Y viện Duy-Tân, Quân y viện Pleiku và Quân y viện
Ban-Mê-Thuột dành cho các y sĩ cựu nội trú ngoại khoa hay thần kinh giải phẩu
đã qua 2 kỳ thực tập với tính cách là nội trú thực thụ.
Bạch Thế Thức và Phan Thanh Hải có đủ điều
kiện và ưu tiên về TYV Duy-Tân, Trần Ngưu Tử, Nguyễn Chi Vỹ về QYV Pleiku, Thủ
khoa Nguyễn Phan Khuê cùng với Trần Văn Cương hăm hở chọn QYV Ban Mê Thuột, Trần
Trung Hoà về Quảng Đức Phạm Hồng Hải về Đại đội giải phẩu lưu động của Liên
đoàn 72. Chỉ có vài chỗ ở các Sư đoàn miền Nam, Nguyễn Văn Quốc chọn Sư đoàn 7;
Huỳnh Thắng Toàn, Nguyễn Văn Đơ về Sư
Đoàn 9; Lê Huy Hoè về SĐ 5; Nguyen Minh
Huấn, Phạm Văn Hạnh về SĐ 21 Bộ Binh;Mai Thanh Hồng về SĐ18 để về sau cũng đủ nếm
mùi gian lao với thiên hạ trên đường triệt thoái băng rừng từ Xuân Lộc về Bà Rịa.
Không có nhu cầu của Không quân, chỉ có 2 chỗ ở Hải quân cho Nguyễn Văn Công và
Nguyễn Ngọc Chiếu. Xếp hạng trung bình, chúng tôi: Nguyễn Khánh Hỷ, Thái Văn
Châu, Lê Vĩnh Thịnh, Phan Ngọc Hà và một dược sĩ thuộc khoá trưng tập 16 (trình
diện trễ) đã chọn Sư đoàn 22 Bộ binh.
Tuy là những nguời lính hiện dịch nhưng
trước mặt những gian nguy kề cận ít nhiều chúng tôi cũng có những dị đoan và ít
ai muốn tình nguyện đi về các đơn vị dũng mãnh như Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn
Thuỷ Quân Lục Chiến, ngoại trừ hai trường hơp tình nguyện của Vũ Đức Giang và
Nguyễn Tiến Dũng đầu quân về Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Chúng tôi muốn xuôi
theo định mệnh theo điều mà ngày nay các người thân chung quanh tôi vẫn hay nói
là "tuỳ duyên". Vũ Đức Giang và Nguyễn Tiến Dũng về TQLC vì thần tượng
của chúng tôi ngày ấy ở Trường Quân Y: y sĩ Thiếu tá Trần Xuân Dũng, một nghệ
sĩ chơi đàn guitare rất hay, ăn nói rất có duyên; không bao giờ quỵ luỵ thượng
cấp, coi thường gian nan khi đi hành quân theo tiẻu đoàn ở TQLC; đã làm Tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 2 QY trước khi về khối huấn luyện TQY.
Ông chỉ huy trưởng và nhiều vị Sĩ quan gốc
nhảy dù đã không khỏi thất vọng khi những người có bằng nhảy dù đã không về Dù.
Chỉ hiếm hoi Trần Duy Thanh (Thanh Khều) và Châu Hữu Hầu có bằng Dù tình nguyện
về Nhảy Dù: Không thích mạo hiểm, Nguyễn Văn Quốc, Trần Văn Cương, Lê Huy Hoè,
…không về Dù; Tuấn Voi đi Biệt Động Quân, trái lại những người chưa từng học nhảy
dù như Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Thạnh
đã chọn SĐ Nhảy Dù; Trương văn Như xưa nay vẫn thích có bằng nhảy dù khi hát
bài Lính Thành Phố nên về Nhảy dù theo đúng sự mong đợi. Trưởng khoá Nguyễn Tài
Mai cùng Nguyễn Văn Chí, Bùi Chí Hùng, Ngô Bá Bảo, Nguyễn Quốc Anh, Đỗ Danh
Toàn, Nguyễn Trọng Nghĩa, Hồ Sĩ Nghĩa, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Đăng Cung,
"Cụ" Khoát đi Biệt động quân; Nguyễn Văn Châu, Huỳnh Đình Đại Nguyễn
Bá Linh, Bùi Ngọc Sĩ theo bước Vũ Đức Giang ("Giang mù") và Nguyễn Tiến
Dũng về trình diện bộ tư lệnh SĐ TQLC. Dương Thanh Trắc về Liên doàn 81 Biệt
Kích Dù, " Ông Tây " Trịnh Nhật Toản đi Thiết giáp để rồi phải kiêng
cữ món cua rang muối cho đến bây giờ mỗi khi đi nhậu với bạn bè. Nhưng,... dù
là chọn đơn vị tĩnh tại không tác chiến; đi theo binh đoàn hay tình nguyện theo
đơn vị tổng trừ bị đánh đấm thật sự, chỉ vài tuần lễ sau đó chúng tôi đã lột
xác vì hầu hết chúng tôi đã:
Về Nơi Gió Cát
Cùng chia sẻ những vui thích và âu lo trong mấy năm Đại học, gặp nhau mỗi ngày ở
phòng ăn, vũ đình trường, hay trong phòng học, chúng tôi đã khá thân nhau, giờ
này cùng nhận chung nhiệm sở năm người chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn.
Phù Hiệu Sư Đoàn 22 QLVNCH
Việc đầu tiên là tìm hiểu một ít về đơn
vị mà chúng tôi sẽ đến. Bác sĩ Hãn nguyên y sĩ trưởng Trung đoàn 42, thuộc Sư
đoàn 22 mới vừa giải ngũ vì thương tật ở mắt đã cho chúng tôi những hiểu biết
ít nhiều về Tiểu đoàn 22Quân y và bộ tư lệnh sư đoàn cũng như tính tình của
các ông Trung đoàn trưởng cùng với những kinh nghiệm xử thế đối với họ. Chúng
tôi hẹn ngày lên đường và ngày trình diện. Thịnh muốn đến đơn vị ngay để dễ làm
việc về sau vì trong sự vụ lệnh không thấy có cho phép chúng tôi được nghỉ ngày
phép nào hết trước khi đi nhận nhiệm sở. Tôi muốn ghé thăm nhà một vài ngày;
Châu phải ở lại Sài Gòn khoảng vài tuần lễ vì phải trình luận án. Hỷ và Diễm
không có ý kiến. Sau cùng chúng tôi đồng ý với nhau sẽ trình diện vào ngày đầu
tuần sau và Châu sẽ xin phép Cục Quân Y sẽ trình diện sau ngày trình luận án. Từ
giã "người bạn nhỏ" với những lời hứa hẹn đẹp đẽ; từ biệt Sài Gòn vời
những ngày hoa mộng dù trong chiến tranh đã cho người dân một cuộc sống khá thoải
mái, ban đêm quán xá vẫn đèn hoa sáng rỡ, các rạp hát vẫn mở cửa thường trực để
dân chúng được thưởng ngoạn những phim ảnh hàng đầu của nền điện ảnh thế giới:
Quo va dis;Bac-sĩ Zhivago, ... Ngoài kia là chiến trường đang sôi sục mà giờ
này chúng tôi mới chính thức nhập cuộc.
Vài ngày nghỉ ở nhà qua thật nhanh; mấy
đứa cháu nhỏ không còn làm mặt xa lạ sau khi nhận quà của chú; cha mẹ tôi hớn hở
khi gặp lại con nhưng không khỏi lo âu khi biết sau lần về thăm nhà tôi sẽ
không trở lại trường học nữa mà sẽ ra đơn vị. Đêm cuối cùng mọi tụ tập ở bàn ăn
và cùng cho tôi những lời khuyên nhủ. Ba người anh lớn đã từng phục vụ trong
quân đội ở những đơn vị tác chiến nên những kinh nghiệm của các anh về lãnh đạo
chỉ huy và ẩn núp khi bị pháo kích thật sự bổ ích nhưng lại làm cho cha mẹ tôi
lo lắng nhiều hơn. Mẹ tôi khuyên tôi giữ gìn sức khoẻ và tử tế với binh sĩ, cha
tôi thì nói như một lời ra lệnh: phải tận tuỵ với chức năng và nghề nghiệp. Sau
này nhiều lần quá mệt mỏi trong những phiên trực chỉ cần nhớ dến lời dặn dò của
cha mẹ tôi là tôi tránh được những xao lãng trong công việc, tránh được những
thiếu sót, và hơn thế nữa, một lần tôi đã chữa trị cho một thương binh địch với
tất cả lương tâm của một y sĩ. Tôi trấn an cha mẹ, nói rằng mình vẫn chỉ làm việc
ở bệnh xá hay nếu có phải đi hành quân thì cũng đi theo bộ chỉ huy của trung
đoàn, nhưng nếu cha mẹ tôi biết rằng hai năm trước đây, trong mùa hè đỏ lửa
chính bộ tư lệnh tiền phương của Sư đoàn 22 đã bị địch bao vây và tràn ngập ở
Tân Cảnh và ông Đại tá tư lệnh cũng đã bị vùi thây trong hàng rào dây kẽm; mấy
bác sĩ bị bắt làm tù binh thì cha mẹ tôi sẽ lo lắng đến chừng nào. Chợt nhớ dến
mấy câu thơ tiền chiến:
Ngày trước mẹ đóng cho con sách,
Dành dụm cho con đến học đường
Ngày nay đang buổi non sông rách
Mẹ gửi con ra bãi chiến trường
Một chút ngậm ngùi!
Tôi cũng đã chào từ giã bạn bè và vài
người thầy cũ. Anh Lương, anh của một người thầy cũ sốt sắng hướng dẫn tôi tìm
nhà người quen ở Qui Nhơn nhân dịp anh trở lại dạy học ở đó vào những ngày đầu
tuần. Ba lô và những thứ quân trang, quân dụng đã được gói kỹ và nhét trong một
túi vải để dưới sàng xe; với áo sơ mi trắng, quần nĩ xanh đen, xắc du lịch nhỏ
với vài quyển sách y khoa ít người biết mình là dân nhà binh; nếu dọc đường xe
có bị VC chặn lai thì sẽ khai là SVYK về thăm nhà. Quốc lộ I ở đoạn này khá tốt,
xe chạy êm; trời dịu mát; hai bên đường đồng ruộng, đồi núi phủ một màu xanh
tươi của những ngày đang mùa xuân.
Niềm quyến luyến gia đình, núi Nhạn,
sông Đà, đỉnh Chóp Chài gợi bao kỷ niệm thời niên thiếu chỉ còn lờ mờ sau lưng.
Xe chạy theo đường vòng bên trái, leo dốc Quán Cau, Đầm Ô Loan mờ hiện trong
màn sương ở hướng Đông Bắc. Phong cảnh khá ngoạn mục như một bức tranh thanh
bình. Ước gì không có chiến tranh! Nhưng sự bình thản không kéo dài bao lâu, xe
đang ngon trớn bỗng chạy chậm hẳn lại. Một đám người đang tụ tập và bàn tán việc
gì bên lề đường bên trái. Xe từ từ vượt qua đám đông; đủ chậm để mọi người
nhìn, nghe những lời bàn tán và biết việc gì đã xảy ra: thì ra đó là xác của một
du kích bị bắn chết đêm qua khi mò về làng lấy gạo. Hình ảnh của chiến tranh đã
nhanh chóng xoá đi những phút giây lãng mạn và mộng mơ. Hình như phía sau nét
yêu kiều của đồng ruộng Tuy An; cầu Ngân Sơn bên dòng sông trong vắt; Sông Cầu,
biển xanh, lô nhô sóng vỗ về bờ cát trắng tình tự với những gành đá mộng mơ là
những sự rình rập đe dọa mà tôi phải đề phòng. Xe xuống đèo Cù Mông, đến ngả ba
Phú Tài để vào thành phố Qui Nhơn theo đường nhựa khá thơ mộng với những hàng
dương liễu những cây liễu rũ.
Dòng sông Qui Nhơn ở bên trái và đầm Thị
Nại phía bên phải như còn vang vọng những trận thư hùng của quân Tây Sơn và
quân chúa Nguyễn ngày nào. Qui Nhơn với những nét diễm kiều của thành phố biển.
Bãi cát vàng bên biển xanh, những hải đảo, Gành Ráng, những tà áo trắng bên trường
Sư Phạm dễ gợi lại ý thơ
"...Bên khóm thùy dương
em thướt tha,
Bên này tơ liễu anh trông qua..." ( Hàn Mặc Tử).
Khi không còn xô bồ như lúc còn hiện diện
của quân đội đồng minh, thành phố đã trở lại nét đẹp ngày cũ, nét yêu kiều cùng
với tình yêu đủ tạo nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ (*) mà khi chiến tranh
chưa đến hồi khốc liệt, chưa có những dòng nhạc phản chiến, khi những ý thức
chính trị chưa ảnh hưởng vào sự thuần khiết đam mê, đã đủ cho chàng đưa nghệ
thuật thăng hoa với những dòng nhạc mượt mà :
"Diễm Xưa": "... Mưa vẫn mưa
bay trên từng tháp cổ, dài tay em mấy thuở mắt xanh xao..."; Gọi nắng cho
vai em gầy, đường xa áo bay..." trong mùa "Hạ Trắng" nghe
"Biển Nhớ " bâng khuâng.
Dạo phố, đến ty xã hội đường Gia Long
thăm chị Hạc bạn của những người anh lớn trong gia đình nhưng không gặp, chị đã
đổi về Bộ Xã hội ở Saigon; mua huy hiệu "hắc tam sơn, bạch nhị hà" của
Sư đoàn 22 về may lên vai áo thay cái huy hiệu của Trường Quân y để bớt đi cái
vẻ lính mới khi đi trình diện ngày hôm sau.
Buổi sáng Thứ Hai, người quen đưa tơi đến
ngả tư Phú Tài, từ đó đón xe của Sư đoàn 22 vào bộ tư lệnh; trình Sự Vụ lệnh và
Căn cước quân nhân cho người quân cảnh; vài phút thì may mắn có xe jeep của kho
y-dược Qui Nhơn vào thanh tra về y dược của kho y dược Tiểu Đoàn 22 Quân y; tôi
nhận ra dược sĩ Văn và dược sĩ Minh khá quen mặt, các anh cũng là dân hiện dịch,
niềm nở chỉ dẫn tôi đến văn phòng Tiểu Đoàn. Bác sĩ Thái, Tiểu đoàn phó đưa tôi
đi làm vài thủ tục hành chánh cần thiết ở các ban liên hệ và đưa về giới thiệu
với Bác sĩ Ý, tiểu đoàn trưởng. Y sĩ Đại uý Lê Thành Ý là người cao lớn vạm vỡ,
thầm nghĩ rằng thượng cấp của tôi phải là một người giữ cung cách nhà binh lắm
nên phải thận trọng chào kính và trình diện theo lễ nghi quân cách; tiến về
phía bàn giấy của anh khoảng 3m, đứng nghiêm, đưa tay lên chân mày phải vừa mới
xưng
"y sĩ Trung uý
Phan..."
thì anh đã xô ghế đứng dậy, không chào lại
tôi mà đến bắt tay và vỗ vai niềm nở: “dân hiện dịch, ngon lành
nhé".
Rồi anh tự cho biết anh cũng dân hiện dịch,
khoá 15, trước đã đầu quân cho Lực Lượng Đặc Biệt; về Biệt Động Quân trước khi
về Sư đoàn 22. Trưa hôm ấy tôi được giới thiệu với Bác sĩ Đãi, Nha sĩ Bảo, Dược
sĩ Văn và Dược sĩ Hưởng. Nhân sự lúc này đang lúc thiếu thốn: Bác sĩ Quát (khoá
19 HD) phụ trách phòng ngoại chẩn đang về Nha Trang để cư tang thân phụ, Bác sĩ
Tuấn "Huế" đang nghỉ phép; Bác sĩ Văn Công Tuấn (Tuấn "Bình-định")
đã được biệt phái về một chức vụ dân cử ở Hội Đồng tỉnh Bình định; Bác sĩ Lê
Thành Các ở Đại đội chỉ huy công vụ đã phải tăng phái đi hành quân với Thiết
đoàn14, tôi được tạm thời phụ trách phòng ngoại chẩn mỗi buổi sáng và luân
phiên trực gác với Bác-sĩ Đãi ở phòng nhận bệnh và các trại bệnh của bệnh xá Sư
đoàn.
Hai ngày đầu không có gì vất vả lắm,
nhưng đến ngày thứ ba công việc bận rộn hơn. Số bệnh nhân ở phòng ngoại chẩn
tăng lên gấp bội; ông Tiểu đoàn trưởng than phiền rằng tôi hơi dễ dãi trong việc
cấp thuốc theo đòi hỏi của bệnh nhân. Buổi chiều và tối có vài đợt thương binh
được đưa về. Thương tích không nặng lắm nhưng họ về một loạt trong một chuyến
xe nên tôi khá lúng túng trong thứ tự ưu tiên giải quyết và nhất là phải thận
trọng để tránh thiếu sót và sai lầm. Nhưng rồi cũng đâu vào đó, các quân y tá
đã khá quen với công việc và họ làm việc rất lẹ làng.
Mấy ngày sau công việc mỗi ngày một nhiều hơn vì chiến trường ở Bình Khê đang hồi
cam go; trung đoàn 42 khá vất vả đương đầu với Sư đoàn 3 Sao vàng của Bắc Việt.
Mọi người gặp tôi đều phàn nàn tại sao những người bạn đồng hành của tôi Châu,
Hỷ và Thịnh vẫn chưa ra trình diện. Buổi chiều và tối sau giờ làm việc trở về
căn phòng mà nghe đâu trước đây là phòng hồi sức cấp cứu của đơn vị quân y sư
đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Không một phương tiện giải trí, ngủ trong một mình trong
một căn phòng rộng nhiều lúc cũng cảm thấy "lạnh gáy"
“An Sơn Bá Tước”
Thế rồi lần lượt tôi cũng đã gặp tất cả các sĩ quan quân y của tiểu đoàn, những
bạn đồng hành đồng khoá: Thịnh, Hỷ, đã dền trình diện; Châu đến trễ hơn vì phải
trình luận án tốt nghiệp. Sự chậm trễ của Châu tuy đã được phép của Cục Quân Y,
nhưng không rõ vì không nhận được văn thư của Cục Quân Y hay vì lý do nào khác
mà anh Tiểu Đoàn trưỏng đã tỏ thái độ hằn học với những lời nói khá cộc cằn khi
Châu trình diện khác hẳn với những cử chỉ vồn vã đối với tôi và Thịnh trong mấy
ngày trước. Châu đã buồn không ít về chuyện này. Còn những người khác có người
tôi đã quen hay biết mặt từ khi còn ở trong Trường Quân Y, ở các thư viện, hay
giảng đường Y khoa hay ở các Bệnh viện Sài Gòn, cũng có người tôi chưa hề gặp lần
nào. Mỗi người một tâm tính, một hoàn cảnh gia đình nhưng ở đây chúng tôi có
chung nhau một điều là cùng về đây phục vụ để lo cho thương bệnh binh và gia
đình quân nhân của Sư đoàn 22. Bác sĩ Quát đã về và tiếp tục công việc ở phòng
ngoại chẩn tuy anh còn buồn và mệt mỏi sau đám tang của thân phụ.
Anh Quát trông điềm đạm hơn nhiều so với
những ngày anh đã cùng với ban cán bộ SV khoá 17 "dìu dắt" chúng tôi
khi chúng tôi mới chập chững đi vào quân đội. Bác sĩ Tuấn cũng đã hết phép, trở
về làm việc, lần đầu tiên tôi gặp anh vì tuy chỉ hơn tôi vài khoá nhưng anh học
ở Huế nên chưa có cơ hội gặp gỡ. Bác sĩ Huỳnh Thiện Hậu thuộc khoá 18 Hiện dịch
thỉnh thoảng trực tiếp đưa thương binh của Trung đoàn 47 từ chiến trường về bệnh
xá Sư-đoàn; tuy nắng gió miền núi rừng cằn cỗi, bom đạn nơi chiến trường đang
sôi động có làm cho gương mặt anh trông rắn rõi một chút nhưng tôi vẫn nhận ra
người y sĩ đàn anh tương đối điển trai với nước da trắng và sống mũi cao một thời
cũng đã có lần cùng các huynh trưởng khoá 17 "chăm sóc" chúng tôi khi
chúng tôi còn ngờ nghệch trong bộ quân phục của một lính mới năm nào. Lần ấy
anh Hậu chỉ bắt tay tôi, nói một vài câu thăm hỏi ngắn, bàn giao thương binh,
ngồi nghỉ, không nói câu gì nữa không rõ vì anh đang quá mệt mỏi hay vì không
muốn nói điều gì chưa tiện nói, chỉ thấy anh hơi buồn. Sau này anh bị kẹt lại ở
Tuy Hòa trên đường di tản đường bộ với đơn vị vì từ chối vé phi cơ của Air
Vietnam mà vợ anh, một nhân viên của hãng hàng không đã được ưu tiên mua sẵn
cho anh. Bác sĩ Huỳnh Đình A (Trung đoàn 47) và Bác sĩ Nguyễn Thanh Hải
("Hải địa chỉ "ở trung đoàn 41) thuộc khóa 20 hiện dịch thỉnh thoảng
về lãnh tiếp liệu y dược hay báo cáo tình trạng thương binh.
Một buổi chiều, bác sĩ Thanh, y sĩ trưởng
trung đoàn 41 về văn phòng tiểu đoàn để hỏi thăm tin tức về việc thuyên chuyển,
anh đang hy vọng rằng lá đơn của anh sẽ được chiếu cố vì anh đã có đủ điều kiện
thâm niên ở đơn vị tác chiến và nhất là lúc này đơn vị không còn kẹt vấn đề
nhân sự; đã có chúng tôi, những người đàn em thế chân anh. Nhưng anh đã thất vọng:
vì nhu cầu chiến trường, mọi người vẫn án binh bất động. Anh chất hết năm người
chúng tôi lên chiếc xe jeep của anh, ra phố Qui Nhơn giải khát.
Để tránh Quân cảnh xét giấy phép hay Sự
vụ lệnh anh chạy xe theo cổng sau của trại gia binh, băng qua các đồng ruộng
khô. Trong khi xe đang lắc lư qua những chỗ lồi lõm trên đường mòn anh chỉ ngón
tay về phía các gốc rạ và ruộng mía nói với vẻ hằn học và bất mãn: "mấy
toa thấy đó, đồng ruộng ở đây khô cằn như vậy, nhưng lúa và mía vẫn mọc được là
nhờ nó được tưới bằng mồ hôi và cả máu của chúng mình đó". Ngồi bên cạnh
tôi như linh cảm một việc gì không hay qua câu nói của Bác-sĩ Thanh, Châu nói
nhỏ với tôi : "Hà còn độc thân không có gì đáng ngại, nhưng tôi còn vợ, 2
đứa con và một đứa sắp sửa chào đời không biết rồi sẽ ra sao !" Lần thứ
hai tôi nghe những lời nói không hay như một điềm gỡ của Châu. Lần trước khi
làm lễ mãn khoá, sau khi chào quốc kỳ, đến phút mặc niệm những anh hùng tử sĩ
đã bỏ mình vì tổ quốc, khi khúc nhạc Chiến Sĩ Vô Danh được tấu lên, Châu nói có
cảm giác ớn lạnh và thấy toàn thân nổi da gà.
Một lần khác, một buổi tối, đơn vị sinh
hoạt chính huấn, nhìn những bức hoạ do Bác sĩ Ý vẽ treo trong hội trường Châu
nói bên tai tôi: “sao mấy cây lớn trong các bức tranh đều bị đốn hết vậy"!
Nhìn các bức tranh có mấy cây cao bị cưa sát gốc và những chồi non đang nhú lên
tôi chỉ nghĩ đến bố cục và sự tương phản màu sắc của những chiếc lá xanh non
trên nền vàng nâu của các gốc cây, nhưng Châu lại lại nghĩ đến sự huỷ diệt và
tang tóc. Châu là người trình diện trễ nhất trong đám chúng tôi nhưng lại là
người được cử ra Trung đoàn trước nhất. Đại đội 224 Quân y của Trung đoàn 42
đang khuyết chức y sĩ đại đội phó, Châu được bổ nhiệm vào chức vụ này. Một chút
lo lắng cho Châu và anh em chúng tôi vì Trung doàn 42 đang hành quân ở Bình Khê
và đang đương đầu với những trận tấn công biển người của Sư đoàn Sao vàng,
nhưng cũng có chút an ủi vì Trung đoàn 42 là trung đoàn có kỷ luật và là Trung
đoàn thiện chiến nhất của Sư đoàn 22 và anh Y sĩ trưởng hiện tại: Bác sĩ Nguyễn
Thọ Trường, thuộc khoá 20 hiện dịch cũng như Bác sĩ Hãn trước đó là những đàn
anh rất tử tế với đàn em và binh sĩ, đã có những tiếng tốt trong đơn vị.
Với hàm râu quai nón trông anh giống như
một người Trung Đông hơn là một người Việt Nam; dáng dấp bề thế đủ tạo cho anh
uy tín của một cấp chỉ huy nên nói chuyện với ai anh cũng nhỏ nhẹ và hầu như
chưa bao giờ làm phật lòng ai về bất cứ chuyện gì. Vì lý do tôn giáo, anh ăn
chay trường từ nhỏ. Ngay cả những ngày phải thụ huấn quân sự ở quân trường, hay
cả trong những chuyến hành quân anh Trường đều giữ giới luật rất nghiêm. Săn
sóc cho thương binh anh không phân biệt cấp bực anh thương binh thuộc phe nào,
bên ta hay bên địch. Nhiều lần vì chăm sóc vết thương của các cán binh Cộng sản
anh suýt bị những rủi ro, có lần cùng với một y tá băng bó vết thương của tù
binh, anh bị bắn sẻ, đường đạn bay ngang trước ngực, ghim vào tảng đá lớn phía
sau làm toét một mảnh lớn bay ngược lại cắt một đường dài trên trán người
thương binh, một lần khác cũng đang lúc quan sát vết thương của thương binh địch
một quả pháo 105 ly rơi cách anh không xa, may mà nó rơi ngay vào một hố đạn cũ
nên không ai bị hề hấn gì.
Sau những lần như vậy những người lính của
anh tin dị đoan và muốn tránh cho anh tiếp xúc với thương binh phía bên kia,
nhưng anh thì suy nghĩ và nói ngược lại vì mình chưa làm hết thiên chức của y
sĩ nên những "đấng bề trên" cảnh cáo. Dù suy nghĩ thế nào thì những
việc làm của anh quả tình đã đúng theo châm ngôn Tổ quốc Nhân loại của ngành
Quân y. Buổi sáng chia tay với Châu, chúng tôi không có "rượu tiễn"
mà chỉ có những tô bún bò Huế thật cay ở khu gia binh; biết Châu không còn tiền
vì vừa phải trang trải mọi chi phí cho việc trình luận án, chia cho Châu một ít
tiền, Châu không nhận, nói rằng không có tiêu xài gì và cơm nước thì đã có phần
ở đại đội rồi, nhưng tôi cứ nhét đại vào túi áo vì làm sao biết được biết trước
mọi việc sẽ thế nào, tình thế đang hồi căng thẳng. Chúng tôi ràn rụa nước mắt
vì cay chứ không phải vì những giọt lệ chia tay vì vẫn nghĩ rằng mặc dù chiến
tranh đang khốc liệt chúng tôi vẫn phải hy vọng còn phải cố gắng để trở về với
gia đình.
Châu được Bác sĩ Ý đưa thẳng ra vùng
hành quân, hôm ấy Thịnh có đi theo "hộ tống" vì theo sự sắp xếp của bộ
chỉ huy Tiểu đoàn thì Thịnh sẽ ra đại đội 221 Quân y của Trung đoàn 40, phụ tá
cho Bác sĩ Minh; còn Hỷ thì sẽ thay thế anh Lê Thành Các ở Thiết đoàn 14. Bác
sĩ Các là người hiền lành, và ham học hỏi, mới ngày nào gặp anh ở Bệnh viện
Bình Dân khi đi thực tập ơ trại Niệu khoa của giáo sư Ngô Gia Hy anh đã tận
tình chỉ dẫn cho tôi những điều hay ho cơ bản trong bộ môn này, giờ đây người
thư sinh bị "bắt phong trần" cũng đã phong trần dày dạn như ai; anh kể
lại chuyện thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vào buổi sáng khi anh mới thức dậy
đang làm vài động tác thể dục, quả đạn pháo 105 ly rơi cách nơi anh không đầy
5m nhưng nhờ chiếc xe command car đã che chắn cho anh. Lần ấy tôi mừng cho anh
đã không gặp nguy hiểm trong cuộc "baptêmme de feu".
Nha sỉ Bảo thì nói rằng nhờ công đức của
anh trong việc tận tuỵ tìm kiếm các con Trichomonas ở phòng khám phụ khoa của bệnh
xá Sư đoàn đã cứu anh. Tình thế biến chuyển thật nhanh; vài ngày sau đó Châu
cùng với anh Đệ (phu quân của chi Yến, cùng khoá với chúng tôi) về văn phòng Tiểu
đoàn quân y để lãnh thuốc men và những thứ hàng nhu yếu khác đang thiếu hụt. Hỏi
thăm về tình hình chiến sự anh cho biết trận chiến chưa ngã ngũ nhưng tin tình
báo cho biết công binh của phe Cộng đang thiết lập một con đường tắt để đánh bọc
hậu. Thấy Châu tương đối dày dạn và không than cực, chúng tôi yên tâm là Châu
đã thích ứng phần nào với hoàn cảnh mới và mọi việc cũng không đến nỗi nào.
Nhưng tình thế xoay chuyển quá lẹ làng.
Quyết định triệt thoái khỏi cao nguyên sau trận Ban Mê Thuột là một một việc
ngu xuẩn cả về chiến lược, chiến thuật lẫn những tính toán trên bàn cờ chính trị.
Hằng ngày sau giờ cơm chiều chúng tôi thường tập trung trong căn phòng chung của
chúng tôi hay ở các bực xi-măng ở trước văn phòng bộ chỉ huy, cùng nhau nghe
đài BBCvà VOA, nhận định về tình hình chiến sự nhưng chỉ nghe toàn những tin
không vui.. Không còn là một sự linh cảm nữa mà là một de doạ thật sự về một trận
đánh mà tôi không biết đâu là giới tuyến. Thương binh về mỗi ngày một nhiều,
Quân Y Viện Qui Nhơn đã quá khả năng nhận bệnh, trả về cho chúng tôi những trường
hợp bị thương ở các phần mềm và ngay cả những trường hợp thương tổn đến xương
khớp. Họ chỉ nhận những thương binh với vết thương cần phải giải phẩu ở bụng ngực.
Phòng mổ của bệnh xá Sư đoàn mà lâu nay chúng tôi chỉ dùng để giải quyết các
trường hợp tiểu phẩu được chỉnh đốn lại để có thể đón nhận những trường hợp
trung phẩu. May mà hầu hết anh em quân y sĩ chúng tôi đều là những cựu nội trú
ngoại khoa nên việc này không đến nỗi vất vả lắm còn chuyên viên gây mê thì
trong Tiểu đoàn cũng đã có sẵn vài người. Thịnh, Hỷ và tôi vì nhu cầu của phòng
mổ được giữ lại làm việc ở bệnh xá sư đoàn tạm thời chưa phải phân phối về các
đại đội quân y của các trung đoàn; hình như việc này có gây một vài dị nghị ở
các y sĩ đàn anh của chúng tôi ở các trung đoàn vì theo lẽ thông thường thì
chúng tôi phải thay thế họ. Nhưng chúng tôi cũng không làm gì khác hơn chúng
tôi không xin xỏ, chúng tôi chỉ làm theo lệnh và là nhu cầu trong lúc chiến trận
đang hồi sôi bỏng.
Dược sĩ Văn nhờ có quen thân với những
sĩ quan truyền tin và các sĩ quan ở phòng 2 và phòng 3 của Sư đoàn nên có biết
một vài tin thức thật sự của chiến trường. Địch quân đã né, không muốn trực diện
đối đầu với Trung đoàn 42 và 47, đã đi đường vòng về áp sát phòng tuyến của Sư
đoàn và điều này cũng dễ nhận biết qua những quả đạn pháo kích ngày càng nhiều
vào doanh trại của chúng tôi vào ban đêm [những điều mà "ông Cò (2*)"
của chúng tôi vẫn biết trong những buổi họp tham mưu với bộ tham mưu sư đoàn
nhưng vẫn cố dấu chúng tôi vì sợ tinh thần sa sút. Ban ngày chúng tôi phải luôn
trong tình trạng báo động, làm việc với áo giáp, nón sắt, súng M16 với một cấp
số đạn và bi đông đầy nước.
Một hôm trong phiên trực tôi và Thịnh
"điếc" đang làm sạch vết thương phần mềm của một anh khinh binh, tôi
phụ trách vết thương ở tay và mặt còn Thịnh phụ trách vết thương ở chân phải của
thương binh. Người thương binh bị thương nhiều nơi do mảnh của lựu đạn nhưng
không mất máu nhiều lắm tôi cố gằng lấy hết các mảnh kim khí và khâu thật đẹp ở
mặt như một việc làm quen thuộc trước đây ở Bệnh viện Nguyễn Văn Học hay Bình
Dân.
Hỷ mở cửa phòng mổ bước vào nói nhỏ vào
tai tôi: "Đà Nẵng mất rồi". Tôi nghe như rụng rời. Đà Nẵng
từ trước đến nay vẫn là thành trì kiên cố trong những lần tấn công của Cộng
quân, là hậu cứ vững chắc của quân đoàn I, quân khu I nếu không muốn nói là cả
miền Trung. Giờ đây hơn một trăm ngàn quân và gia đình họ ra sao? Trong đó chắc
chắn có những người bạn của chúng tôi. Thịnh vẫn chưa biết tin, vẫn cặm cụi với
việc khâu vá vết thương, lấy cớ chóng mặt tôi giao hết phần việc còn lại cho Thịnh,
theo Hỷ ra ngoài vì không còn lòng dạ nào tiếp tục làm việc.
Chiến sĩ Sư Đoàn 22 cố thủ tại Bình Khê
tháng 3/1974
(Trích ongvove.wordpress.com)
Sáng hôm sau chúng tôi mở lại giấy sự vụ
lệnh bổ nhiệm lúc trước để điểm danh những người bạn có thể đang bị kẹt ở Đà Nẵng
và Huế. Tiểu đoàn I và Tiểu đoàn II, Tiểu đoàn III Quân y có Chu Kỳ Đức, Phan
Tiếc ,Vũ Quốc Cường, Phạm Anh Dũng, Lê Bình Đẳng, Võ Dũng và nghe đâu tất cả
các quân y sĩ mới về Thuỷ quân lục chiến cũng đã được phân phối về các tiểu
đoàn đang tham chiến ở miền Trung; như vậy số phận của Vũ Đức Giang, Nguyễn Tiến
Dũng, Nguyễn Bá Linh, Nguyễn Văn Châu, Hồ Đinh Dư, Huỳnh Đình Đại, Trương Ngọc
Hiền không biết sẽ ra sao. Đã đành các bạn theo các đơn vị tác chiến phải vất vả,
hai người bạn: Bạch Thế Thức và Phan Thanh Hải được ưu tiên chọn Tổng Y viện
Duy Tân tưởng sẽ được an nhàn hơn chắc cũng không ngờ giờ này cũng phải bôn tẩu.
Chúng tôi ra bờ rào dây kẽm và đốt tất cả
những giấy tờ loại này, chỉ giữ lại những tờ căn cước cá nhân vì nghĩ rằng nếu
có sa cơ bị bắt thì họ sẽ không có những tài liệu để khai thác hay tuyên truyền
phóng đại. Buổi trưa sau giờ cơm, dược sĩ Diễm đưa chúng tôi vào thăm kho y dược
và y cụ. Thuốc men vẫn còn khá đầy đủ trên các kệ thuốc, các tạp chí Y học như
JAMA, Lancette, Schwartz’s Surgery vẫn còn nguyên trong bao bì vì chưa ai rảnh
để đọc, các tủ đựng y cụ vẫn còn nguyên với những món hàng tương đối có giá: những
chiếc ophthalmoscope, stethoscope còn mới nguyên trong họp, những thứ mà vào thời
kỳ sinh viên chúng tôi phải đắn đo khi khi mua sắm sao cho vừa với túi tiền của
mình và của gia đình, giờ này Dược sĩ Diễm muốn biếu không cho chúng tôi. Tôi ướm
thử một chiếc tensionmetre, chắc nặng cỡ 3 gói mì ăn liền, thôi không cần đâu 3
gói mì sẽ có giá hơn chiếc tensionmetre trong ba lô trên đường mưu sinh thoát
hiểm mà tôi đang mường tượng trong đầu.
Ngày chúa nhật có lệnh cấm trại trăm phần
trăm mọi sự xuất trại kể cả có sự vụ lệnh đều phải được sự xác nhận của đơn vị
trưởng. Dược sĩ Diễm xin phép được đi lễ nhà thờ do cha tuyên uý làm chủ lễ
trong khuôn viên của bộ tư lệnh sư đoàn. Tôi không có đạo nhưng vẫn muốn cầu
xin ơn trên che chở nên đã theo Diễm di nhà thờ. Diễm cầu nguyện rất thành tâm
và trong một lúc nào đó tôi thấy anh có rơm rớm nước mắt, có thể anh đang nghĩ
đến gia đình trong khi cầu nguyện.
Tối hôm ấy Bác sĩ Ý, tiểu đoàn trưởng tập
họp tất cả các sĩ quan trong tiểu đoàn trong văn phòng tiểu đoàn, nói rằng có một
phiên họp. Nói là họp nhưng chẳng có gì để bàn thảo hay thông báo; hình như
"ông cò" muốn dò xét những suy nghĩ của chúng tôi trước tình hình
căng thẳng này. Ông mở chai Champagne, hộp bánh Lu, rót cho mỗi người một ly rượu
và một chiếc bánh và dõng dạc nói:" tình thế có khẩn trương nhưng
các anh em nên giữ vững tinh thần, chúng ta là những sĩ quan quí tộc- vào thời
của Napoléon sĩ quan quân y thường được phong là những bá tước..."
Ngồi bên tôi Dược sĩ Diễm nói nhỏ: “chúng
mình là những An sơn Bá tước đấy". Từ đó về sau mỗi khi gặp nhau
chúng tôi hay gọi đùa nhau là Bá tước Thịnh, Bá tước Hỷ, bá tước Diễm, ...
Riêng về Bác sĩ Ý sau này có dịp tiếp
xúc với những y sĩ đàn anh , họ cho biết anh Ý là một người có năng khiếu hội
hoạ, giỏi ngoại ngữ và khá về chuyên môn nhưng vì thích mạo hiểm nên không chọn
nhiệm sở ở các Quân y viện mà chỉ thích làm Y-sĩ tiền tuyến. Chính anh đã thiết
lập một phòng mổ dã chiến tại một tiền đồn của Biệt Động Quân biên phòng để mổ
gắp đầu đạn M79 trong cơ thể một thương binh khi phi công của trực thăng
MEDIVAC từ chối tản thương người thương binh này vì sợ nguy hiểm: đầu đạn M79
có thể nổ bất cứ lúc nào. Biết anh giỏi ngoại ngữ tuy nhiên chưa nghe anh nói
tiếng Anh hay tiếng Pháp với lính mà chỉ nghe anh noi tiếng Đan-mạch nhiều, nhiều
khi anh gọi những người lính bằng những tiếng như: " thằng b.c", thằng
c.c.", ...
Ngoài các "An Sơn Bá tước" tôi
cũng đã có dip làm quen với vài sĩ quan hành chánh và trợ y trong đơn vị. Thiếu
uý Chánh lo hồ sơ nhân viên, Thiếu uý Lộc lo tiếp liệu y dược và tổng quát, Thiếu
uý Ẩn không nhớ coi về phần việc gì tôi chỉ nhớ rằng anh có biết chút ít vế việc
xem bói và tử vi có biệt danh là "thầy bói Lợn", Thiếu Uý Giàu người
sĩ quan trẻ nhất đơn vị, còn dáng dấp học trò mà chúng tôi vẫn gọi một cách
thân thương là "Út Giàu", Trung uý Anh, và Thiếu Uý Chiến, người bạn
mới quen đã vĩnh biệt chúng tôi khá sớm trong chiến cuộc.
Đêm hôm ấy mọi người được lệnh phải ứng
trực và nghỉ ngơi tại bộ chỉ huy của tiểu đoàn. Nửa đêm thanh vắng bổng có tiếng
sáo của ai thổi từ bên phòng hộ sinh, người thổi sáo đã tấu bài Hận Đồ Bàn nghe
não nuột và tức tưởi, tôi nói nhỏ với Nha sĩ Bảo hay là kẻ nào muốn dùng tiếng
sáo Trương Lương để làm nản lòng binh sĩ? Bảo bực mình ra ngoài cầm một viên đá
thật lớn ném mạnh lên mái tôn nhà hộ sinh; tiếng sáo ngưng một lúc nhưng sau đó
lại vang lên, cũng với tấu khúc Hận Đồ Bàn. Bảo xách súng lên đạn lắc cắc và cầm
một viên đá lớn hơn đến chọi thẳng vào cửa sổ tiếng sáo mới chịu im.
Buổi chào cờ sáng đầu tuần hôm sau được
bãi bỏ vì tình hình đặc biệt, có lẽ không ai muốn những hàng quân đang nghiêm
chỉnh chào quốc kỳ lại là mục tiêu ngon lành của những quả đạn pháo kích giống
như những hàng quân của Mỹ trong những bộ đồ tiểu lễ chào cở là mục tiêu của những
oanh tạc cơ Zero của Nhật trong trận Trân Châu Cảng.
Nhưng đúng 8 giờ chúng tôi được lệnh tập
họp để nhận lệnh hành quân đặc biệt: ba bác sĩ tân binh chúng tôi Hà, Thịnh , Hỷ
cùng với Dược sĩ Diễm dưới quyền điều động của Bác sĩ Đãi đưa tất cả thương bệnh
binh ra quân cảng Qui Nhơn chờ lệnh. Tôi đã hiểu ra việc gì rồi nhưng muốn nói
đùa với Hỷ và Thịnh: "sao hành quân gì kỳ vậy? Đang giao tranh ở miền
Tây theo phương giác 270 thì mình lại di chuyển theo phương giác 90 về miền
Đông vậy thì tăng cường và yểm trợ cho ai?"
Thịnh vỗ vào lưng tôi : "mày
còn lèm bèm gì nữa? thi hành trước, khiếu nại sau". Chúng tôi được
cho lên một chiếc xe jeep trành mà hạ sĩ Hải, tài xế nói rằng xe này là xe nằm ụ
đang chờ tân trang. Quả vậy chiếc xe trông thật bệ rạc: mui vải thì rách tả
tơi, những chiếc ghế đã rách hết nệm, được lót bằng những miếng ván giấy carton
và hình như bình xăng chỉ đủ xăng để chạy đến quân cảng. Nhưng dù cà rịch cà
tàng, chiếc xe cũng đã đưa chúng tôi đến đúng điểm hẹn lúc 9 giờ sáng. Bác sĩ
Đãi đến trước ngồi chờ chúng tôi. Chiếc tàu lớn của Hải quân tôi không nhớ số
đang đậu sẵn ở cầu tàu. Thương binh không cần chờ lệnh đã xuống xe theo đường cầu
vòng leo lên tàu.
Theo lệnh của Bác sĩ Đãi, chúng tôi và
các quân y tá vẫn yên tâm chờ đợi nhưng rồi không biết chờ đến bao lâu, một vài
y tá đi loanh quanh trong bến cảng và lục lạo những chiếc valises của những người
đã lên tàu vội vã bỏ lại, có lẽ vì đồ đạc lỉnh kỉnh nặng và không đáng giá, phần
lớn là những thứ sách vở báo chí hay vật lưu niệm chỉ có giá trị đối với người
liên quan và trong những lúc bình yên. Hạ sĩ Hải người tài xế của chúng tôi
phát giác ra rằng có một chiếc xe jeep khác không có ai lái, trên xe cũng không
có đồ đạc gì, mang bảng số của SĐ 22, chìa khoá xe còn gắn trên ổ khoá và bình
xăng còn đầy, hỏi chúng tôi có cần đổi xe không? Ai cũng nghĩ rằng mình sẽ lên
tàu Hải quân nên xe cộ giờ này có ích gì nhưng có lẽ vì lý do nghề nghiệp Hải
thích những chiếc xe mới, còn tốt hơn những chiếc xe cũ ọp ẹp như chiếc xe của
chúng tôi lúc ấy nên bảo mọi người chuyển đồ lên chiếc xe mới. Không ai phản đối
gì, và Hải đã đúng: còn đứng trên mặt đất thì còn cần xe”.
Mặt trời đã ngã về hướng Tây, 1 giờ; rồi
2 giờ rồi 3 giờ chúng tôi vẫn trông ngóng nhưng không thấy bóng dáng của người lính
nào hay cấp chỉ huy của đơn vị. Bốn giờ. Tàu Hải quân nhổ neo và chậm rãi rẽ
sóng ra khơi, nhưng tàu không đi xa, chỉ ra đậu ngoài khơi, còn trong tầm mắt đủ
để khiêu khích sự nuối tiếc của chúng tôi.
Đang lay hoay chưa biết tính toán thế
nào; đã 5 giờ chiều thỉnh thoảng vài tiếng súng nổ đó đây trong thành phố đủ tạo
tình trạng hoang mang. Xe của Bác sĩ Quát và Bác sĩ Thái đến cùng với vài y tá.
Anh Thái nhìn chúng tôi ngạc nhiên hỏi: "sao chúng mày còn ở đây? Ra
ngoài này từ sáng sớm không lên tàu chần chừ ở đây làm gì?". Một
người nào đó đáp rằng: vì chúng em chỉ nhận được lệnh đến đây chờ Bộ chỉ
huy của tiểu đoàn".
-"Sao chúng mày ngu thế!". Bực dọc vì những lệnh lạc rời rạc, thiếu minh bạch của anh Tiểu
Đoàn trưởng và sự ngây thơ đến mức ngu si của chúng tôi anh Thái đã không còn
giữ phong thái lịch sự thường ngày. Anh lại than phiền rằng anh Tiểu đoàn trưởng
đã ra lệnh di chuyển quá trễ để giờ này không còn tàu Hải quân, và trời cũng đã
tối làm sao có thể đi đường bộ được. Nhìn mặt trời còn đủ sáng, thấy cảnh nhốn
nháo của mọi người, tôi cảm thấy nếu phải qua đêm ở đây thật là bất tiện và chắc
gì ngày mai tình hình có thể sáng sủa hơn, đề nghị với anh Thái rằng phải rời
Qui Nhơn càng sớm càng tốt; nếu cần thì cũng liều mà chạy đường bộ còn hơn là nằm
ở đây đêm nay trong tình trạng không có vị trí phòng thủ an toàn như thế này. Mọi
người đều đồng ý chọn giải pháp này, quay đầu xe về hướng quốc lộ I; đến ngả ba
Phú Tài, trực chỉ về hướng Nha Trang chạy với vận tốc tối đa mà xe có thể chạy.
Vĩnh biệt Qui Nhơn, chiều đã sắp tàn,
tuy không phải là quê hương của mình nhưng là nơi mà trong một thời gian ngắn đầu
đời binh nghiệp tôi đã sống; đã hy vọng; nơi đây có những người quen thân trong
gia đình tôi và chính nơi đây quê hương của những người bạn đồng khoá của tôi:
Nguyễn Chi Vỹ, Hồ Sĩ Nghĩa, Lê Minh Châu, Trương Thế Phiệt... Bác sĩ Quát đi đầu,
những động tác thuần thục trên tay lái; gió thổi mạnh làm phất phơ vài sợi tóc
dưới chiếc nón sắt trông anh thật oai vệ làm tôi chợt nhớ đến hình ảnh của
chính anh trong phim "Chân Trời Tím"; nhưng giờ này là hình ảnh sống
thật sự, không có nét gượng ép giả tạo nào. Tiếc thay việc rong chơi ở ngoài đời
cũng như trong phim ảnh của anh đã sớm tàn cuộc mà phần thua thiệt đã về phía
chúng ta (3*). Xe chúng tôi chiếc xe mà Hạ sĩ Hải vừa mới nhặt được ở quân cảng
chạy khá tốt theo đuôi xe anh Quát, bác sĩ Đãi và bác sĩ Thái chạy sau. Đường
chiều vắng và buồn; dọc đường trông thấy vài chiếc xe khác bị hỏng máy, nằm ụ
nhưng không ai dám đoái hoài vì chính họ cũng chưa biết số mệnh họ như thế nào;
chưa biết chuyến đi sẽ về đâu. Có lúc tôi thấy mắt cay cay...
Xe chạy qua Tuy Hòa, tôi cố nhìn và ghi
lại những hình ảnh của quê hương vì biết đâu mình sẽ không còn cơ hội trở lại.
Hàng mấy trăm người đứng dọc theo quốc lộ I ở ngả ba Trần Hưng Đạo, nơi rẽ vào
thành phố để chờ và hỏi thăm tin tức của thân nhân di tản từ Cao nguyên và các
tỉnh miền Trung. May mắn tôi gặp đươc người anh cả trong gia đình tôi, tôi gọi
tên anh nhưng anh không nghe, Thịnh, Diễm và người khác trong xe cùng gọi lớn,
anh quay về phía chúng tôi, nhìn thấy tôi và đưa tay khoát nhiều lần ra dấu bảo
chúng tôi nên chạy nhanh đi, Nhưng đoàn xe xe bị nghẽn đường ở cầu Đà rằng, chạy
đủ chậm, anh tôi chạy đến bên xe bảo: "Chạy nhanh di đừng quyến luyến
gì, cha mẹ già yếu không chịu di tản, Cô em Út và mấy đứa cháu đã vào Nha
Trang. Vào đó đi, anh P. và anh D. sẽ cùng em tính toán mọi việc, còn việc nhà
để anh lo". Đoàn xe tiếp tục di chuyển, tôi thật ngậm ngùi... Anh
tôi đứng nhìn theo, tôi nhìn anh nghẹn ngào. Phải, tôi may mắn sinh ra trong một
gia đình đông anh em nhưng mọi người đều thương yêu và bảo bọc nhau, nhất là
người anh cả của gia đình tôi đã rất nhiều lần thừa hành cha mẹ để lo lắng và
quyết định mọi việc của anh em chúng tôi.
Nhìn lại quê hương một lần nữa, vẫn còn
đó sừng sững núi Chóp chài, Núi Nhạn, và dòng sông Ba... Nhưng sao cảm thấy xót
xa:
... Chóp chài như cô quạnh,
Khổng miếu sao hoang tàn,
Nhạn Tháp sầu u tịch,
Quê hương một màu tang...
Nha Trang, điểm hẹn và niềm hy vọng cũng
đã về đêm, không còn vui nhộn như mấy tháng trước đây khi tôi ghé qua. Các dãy
nhà phố đóng cửa sớm. Cảm thấy đã an toàn chúng tôi vào một quán café ở góc đường
Độc Lập gần chợ Đầm còn đang mở. Nhưng café sao thật đắng và chủ quán lại cho
hát bài " Compagnon Disparu"(chiến hữu mất tích) tôi linh cảm như có
một sự mất mát. Không sai, đã có mấy ngưới bạn của tôi: Thái Văn Châu, Đoàn
Trung Bửu, Vũ Đức Giang, vài người bạn mới quen như Thiếu Uý Chiến, anh Đệ chồng
chị Yến đã không bao giờ trở về.
Mọi sự mong đợi cũng chỉ đem đến những
thất vọng. Đoàn quân di tản từ Cao nguyên và từ các tỉnh ở phía Bắc chẳng những
không tăng cường cho nền an ninh ở Nha Trang mà còn gây thêm hoang mang và những
xáo trộn khác. Những giới chức ở Bưu điện hay ở những trạm viễn liên đã di tản
hay vì vấn đề gì đã không đến nhiệm sở; mất liên lạc viễn thông, Nha Trang được
đánh giá như đã thất thủ trong khi chưa hề có bóng dáng một cán binh Cộng sản
nào trong thành phố. Một lần nữa tôi lại phải xa những người anh em thân yêu
trong gia đình, để cố vượt thoát vòng kiểm soát của Cộng quân như một sự bất lực
và ích kỷ, Nha Trang với biết bao kỷ niệm chói chang linh hồn phượng vĩ trong
những ngày hè, những mùa thi, giờ đây tôi phải bỏ lại sau lưng thành phố, một
vùng non nước hữu tình với biển xanh, bờ cát trắng.
Và rồi chỉ một thời gian ngắn ngay sau
đó mọi sự đã xảy ra cho tôi và các bạn tôi như một sự trùng hợp mà một nghệ sĩ
(4*) đã viết trong lời tựa giới thiệu những tác phẩm nghệ thuật của mình:
"... nhưng khi đàn bướm bay xa, tiếng ca vừa dứt là lúc câu chuyện lưu đày
xót xa hơn bao giờ hết..." và cũng đã đôi lần tôi cố gắng sống với thứ triết
lý quý giá này của người nghệ sĩ tài ba ấy trong cuộc lưu đày trong các trại tập
trung rằng:
" .. câu chuyện lưu đày chỉ là một cuộc hành hương vô tận”
và dấu chân xưa chắc chỉ còn như là tro tàn của nén hương đưa tiễn những người
thân đã đi xa.
Chicago tháng 4 năm 2009
Phan Bảo Thư
(*) Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thời còn học sư phạm ở Qui nhơn
(2*) cò, tiếng lóng của chúng tôi để gọi cấp chỉ huy, đọc trại từ chữ commander.
(3*) Bác Sĩ Lê Bá Quát về sau đi tu, thọ giới tỳ kheo, và đã viên tịch vài năm
trước đây ở California như là nhân chứng của những vô thường trong thế cuộc phù
sinh.
No comments:
Post a Comment