Tưởng chừng đã quên
KIỀU NGUYỄN
Đã lâu rồi sao lòng vẫn nhói đau mỗi
khi tháng Tư về, tưởng như chỉ trái tim tôi bị xé ra từng mảnh nhỏ. Thì ra nỗi
buồn tưởng như rất riêng của tôi lại là nỗi buồn chung của nhiều người, khi có
ai đó đã hỏi rằng: những ngày tháng Tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, bạn
ở đâu và làm gì?…
Khoảnh khắc ấy như những thước phim
ngày cũ hiện về – là nỗi kinh hoàng trong tôi – là khoảng thời gian
vô cùng dễ sợ đối với tôi, một cô giáo trẻ đi dạy xa nhà. Một sự hụt hẫng tột
cùng. Tôi như con chim non lạc đàn, bơ vơ lạc lõng, không kịp buồn với một cuộc
tình vừa kết thúc. Sau khi nghe tin Ban Mê Thuột thất thủ, cục diện nơi thành
phố nhỏ tôi đang ở sôi động hẳn lên. Mọi người vội vàng tất bật. Nơi tôi dạy
hàng ngày đều nhìn thấy cảnh chiến tranh và pháo kích. Vậy mà Tòa hành
chánh và các ty sở đều ra lệnh công chức không được rời nhiệm sở. Ngoài đường
tôi thấy ai nấy đều lo chuẩn bị. Tôi cũng chuẩn bị nhưng chuẩn bị gì đây? Tin
chiến sự xảy ra từng ngày rồi từng giờ. Chần chờ nữa rồi cũng phải tìm đường về
nhà…
Tôi vội vàng liên lạc với tổng đài Mê
Linh để xin gọi về nhà nhưng không đường dây nào liên lạc được. Nhân viên tổng
đài nhìn tôi bằng cái nhìn lo lắng và lắc đầu tuyệt vọng. Nước mắt tôi tuôn
trào và tim tôi như ngưng đập. Đầu óc choáng váng. Tôi lại càng hoảng sợ khi
các con đường từ Đà Nẵng, Quảng Tín vào Quảng Ngãi đều bị pháo kích và không
còn một chiếc xe đò nào từ Bình Sơn vào Quảng Ngãi nữa. Bến xe Quảng Ngãi vắng
tanh không một chiếc xe. Mọi người chắc cũng đã đi tản. Không biết họ đi bằng
đường nào. Tôi tìm mọi cách để về Qui Nhơn vì các chị tôi đang ở đó nhưng
đường bộ thì hoàn toàn bị cô lập. Còn đang lang thang trên đường thì có tiếng gọi: Cô
ơi! Cô ơi! Thì ra một em học sinh kỹ thuật đang chạy tới chỗ chúng tôi.
Em vừa thở vừa nói: Các cô đi đâu đây? Bây giờ không có xe đò và cũng không còn chiếc tàu
nào nữa. Chỉ còn chiếc tàu cuối cùng của nhà em thôi, các cô theo em cho kịp.
Chúng tôi đến Phú Thọ thì tàu đã chật
kín. Nhìn những gương mặt buồn hiu thảng thốt, tôi chợt thấy nhớ nhà vô tả. Nhớ
má tôi vô cùng. Chắc giờ này má đang lo lắng cho chị em chúng tôi, nhất là tôi,
một mình ở rất xa gia đình. Nước mắt tôi lại chảy dài. Tôi mang những giọt nước
mắt đau buồn lẫn lo sợ chìm vào giấc ngủ. Nói là ngủ thật ra tôi bị say sóng.
Lúc đầu thì thấy khó chịu đầu óc quay cuồng. Tôi lịm dần vào cơn mê. Trong cơn
mê man, tôi như nghe thấy có nhiều chiếc tàu đi ngang qua và họ đã thảy thức ăn
qua tàu chúng tôi.
Tôi không biết con tàu này đi về đâu,
đã đi qua những chặng đường nào và được bao lâu rồi. Tôi vật vờ trong cơn mê,
cho đến khi chị bạn đánh thức gọi tôi lên bờ. Tôi giật mình, nhìn ra thì trời
đã tối. Tôi vội hỏi: đây là đâu? Chị bạn trả lời: Nha
Trang. Tôi hốt hoảng: mình không quen ai ở đây hết, làm sao bây giờ?
Còn đang lo lắng thì tôi nghe giọng nói quen thuộc của Hoa Lê: Không
sao đâu, về tạm nhà mình rồi tìm đường về Sài gòn sau cũng được. Tôi mừng
quá. Muốn cảm ơn em học sinh kỹ thuật nhưng tàu nhà em đã đi rồi. Tôi bước chân
lên đất liền mà như vẫn còn say sóng. Hoa Lê ơi, cũng may con có bạn.
Nhà Hoa Lê có quán cà phê. Buổi sáng,
khi ngồi ở quán cà phê cho tỉnh táo, tôi thấy có hai chàng phi công nhìn về
phía tôi. Có lẽ tôi là một khuôn mặt mới chăng? Rồi tôi chợt nhớ ra mình cũng
có người nhà là phi công mà. Em rể tôi đang làm huấn luyện viên của Trường phi
hành Nha Trang. Lập tức tôi nhờ Hoa Lê chở đến trại Phi Long. Ở trại Phi
Long, tôi gặp người lính trực và nhờ nhắn là có người nhà của đại úy LKN muốn gặp.
Khoảng 15 phút sau, một anh chàng đại úy lái chiếc Vespa chạy ra. Thấy chúng
tôi đứng đó mà cứ lượn qua lượn lại cả chục vòng. Người lính trực thắc mắc: Đại
úy tìm ai em chỉ cho. Tôi tìm “bà già” của đại úy Nam mà không thấy.
Người lính trực cười: không phải bà già mà là hai người đẹp này
đây. Sau khi hỏi ra thì được biết em rể tôi đang huấn luyện ở trường
phi hành Phan Rang.
Tôi vội vàng đi Phan Rang dù trời sắp
tối. Phan Rang đón tôi bằng một trận pháo kích kinh hồn. Cũng may Nam kịp thời
đón chúng tôi vào trại. Chị em tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi nhưng ngày
mai Châu lại về Sài Gòn trước. Tôi và người bạn ở lại hai hôm sau mới có chuyến
bay về Sài Gòn. Tôi trở về Sài Gòn mà đầu óc trống rỗng, như một cái xác
vô hồn. Lo lắng. Hoảng sợ. Lúc được lên máy bay, lòng mừng vô hạn, nhưng mãi đến
bây giờ tôi không hiểu tại sao mọi người lại phải dẫm đạp chen lấn để lên máy
bay trong khi trong tay ai cũng có thẻ lên tàu. Tôi thật sự rất may mắn vì là
người ở xa nhất trong gia đình lại được trở về sớm nhất. Cả nhà mừng rỡ khi gặp
lại tôi. Nhưng má tôi lại lo lắng cho gia đình hai chị còn ở lại Qui Nhơn.
Lúc bấy giờ Sài Gòn chưa thất thủ. Báo
chí, truyền thanh, truyền hình liên tục đăng tải tin tức miền Trung khốc liệt,
Hàng hàng lớp lớp người dân di tản. Gia đình ly tán. Cửa nhà mất mát. Cảnh giết
người cướp của hoành hành ngay trước mắt. Những đại lộ kinh hoàng đẫm máu đầy
xác người. Những bước đi trong tiếng đạn pháo kích. Càng đau lòng nhìn thấy tin
tức khi có người mẹ ôm con trên đường lánh nạn chỉ còn là cái xác trẻ thơ, hay
những đứa bé con khóc hãi hùng bên xác người mẹ xấu số…
Mỗi lần nghe tin tức là má tôi rơi nước
mắt, lo cho gia đình hai chị, nhất là hôm nhìn thấy trên báo hình ảnh một cô
gái mặc áo ba ba với mái tóc dài bay trong gió. Má tôi nước mắt như mưa, không
ăn không ngủ, ngày đêm cầu nguyện. Bây giờ tôi là chị gái lớn nhất trong mấy chị
em. Ngày nào má tôi cũng nhắc đi tìm các chị. Phải là người trong cuộc mới thấy
được cái cảnh mỏi mắt đợi chờ người thân thất lạc. Có đến các bến tàu, bến
xe, phi trường, mới thấy được những cảnh tượng đoạn trường đau lòng, trùng
phùng mà rơi nước mắt. Ngày nào cũng vậy, mấy chị em chúng tôi hết lên xe
buýt rồi lại xuống xe buýt, hết phi trường lại đến bến xe, bến tàu… Nhưng các
chị vẫn bặt tăm. Các em nhỏ mỏi mệt hỏi tìm hoài sao không thấy chị? Không biết
trả lời sao, tôi chỉ ngậm ngùi lau nước mắt. Trải qua những ngày tháng đợi chờ
tin tức của gia đình hai chị sao mà dài đăng đẵng. Cả nhà tôi không còn ồn ào rộn
rã tiếng cười như xưa. Những bữa cơm lặng lẽ kéo dài không ai dám lên tiếng…
Một hôm chị Nguyệt của tôi bỗng xuất
hiện như một phép lạ. Trước mắt chúng tôi là chị và bốn đứa con, đứa nhỏ
nhất vẫn còn ẵm trên tay của Đẹp. Anh rể tôi thì ở lại để giữ trại. Nghe kể
lại cuộc hành trình của chị mà cả nhà rơi nước mắt. Tay dắt bốn đứa con thơ tìm
đường lánh nạn mà không biết chồng mình ở lại ra sao! Trước đó, chị cương quyết
không để anh lại một mình nhưng anh khuyên nhủ mãi cuối cùng chị mới chấp
nhận mang con ra đi mà lòng rối bời canh cánh. Những chặng đường Sông Cầu –
Tuy Hòa – Nha Trang đầy dẫy hiểm nguy, sự sống trên cái chết. Hình ảnh chị
tôi, người phụ nữ hiền lành yếu đuối tay đắt bốn con thơ trên chặng đường lưu lạc,
cứ làm nước mắt tôi chảy dài.
Mấy mẹ con đến được Phan Rang trăm bề
gian khổ. Vậy mà chờ hoài chẳng có chuyến bay về Sài Gòn. Viết đến đây tôi vô
cùng biết ơn LKN – người em rể đã hết lòng hết sức giúp đỡ chúng tôi chống
đỡ làn sóng người ồ ạt chen lấn dẫm đạp để chúng tôi có thể lên được máy bay an
toàn. Nếu không có Nam giúp đỡ, tôi không hiểu những chặng đường tiếp theo của
tôi và gia đình chị tôi sẽ thê thảm như thế nào. Và rồi chúng tôi lại tiếp tục
chờ đợi vợ chồng chị Nga. Rất lâu và rất lâu…, hai vợ chồng chị lưu lạc theo
tàu đánh cá Phú Quốc mới về được đến Sài Gòn…
Buổi sáng ngày 30 tháng Tư, máy bay vần
vũ trên Dinh Độc Lập. Tình hình bên ngoài thật nhiễu nhương. Lòng dân hỗn loạn.
Nhìn thấy những chiếc xe tăng tiến vào thành phố mà lòng mọi người đau như cắt.
Có những kẻ lợi dụng cơ hội này đi đập phá, hôi của ở nhà cửa, hãng xưởng hoặc
building ngoại quốc. Nỗi lo sợ vẫn tiếp tục kéo dài khi ông Dương Văn Minh
tuyên bố đầu hàng. Má tôi hối hả bắt chúng tôi cột tóc lại, mặc áo màu sẫm và
phát mỗi đứa một cái quần đen. Má bắt mấy đứa con gái phải đeo nhẫn vào tay hết.
Những chuyện buồn cười và bất thường như vậy dễ dầu gì chị em chúng tôi nghe
theo nhưng lần này không hiểu sao chúng tôi lại răm rắp thi hành. Chị dâu tôi bối
rối không tìm ra chai nước rửa móng tay vội lấy dao lam cạo đi lớp sơn trên
móng.
Chúng tôi đã mất Qui Nhơn. Mất Ban Mê
Thuột. Mất Huế. Mất hết. Tim vẫn còn rướm lệ. Bây giờ Sài Gòn cũng mất,
vào một ngày tháng Tư buồn. Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt.
No comments:
Post a Comment