Dải yếm trong văn học –
Tiểu luận của Đặng Tiến
Ngày tết ngày xuân là những lúc có nhiều lễ hội, cái lễ hội được bao nhiêu trai thanh gái lịch đã dạo chơi là "lễ hội chùa Hương", chắc nhiều người cũng biết nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp đã để lại đời những câu thơ trong trẻo " khăn nhỏ đuôi gà cao / em đeo giải yếm đào/ Quần lĩnh áo the mới/ tay cầm nón quai thao".
Đấy là trang phục của những giai nhân đất Hà
thành ngày xa xưa ấy.
Một thời gian dài yếm đào bị lãng quên bởi
những chiếc áo dài, áo cách tân, những trang phục tây phương, thì gần đây được
các nhà tạo mẫu dựng lại bỏ bớt phần "quần lĩnh áo the" mà được kết
hợp theo cung cách mới, được thay thế bằng quần jean hoặc với chiếc váy
"jube" để đi lại. Cũng hứng chịu nhiều chỉ trích vì căn bản yếm là đồ
“phụ tùng" bên trong chiếc áo the vì phần lưng và đôi cánh tay hoàn toàn
là trống trơn. Cũng nhờ khoảng trống này tạo nên nét mềm mại mà kín đáo, tuy
hơi lẳng lơ hở ra chút lườn mà lại thấy tế nhị.
Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh
Những cô áo yếm bao phủ chiếc eo thon với áo
tứ thân, thêm nón quai thao phụ tùng này tạo thêm ngọt ngào trong câu hát
cổ...đến nỗi
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu
Không biết sao các sư ông, sư cụ lại hay bị
đem ra bỡn cợt đến như vậy
Sư ông đang tụng niệm nam mô
Thấy cô yếm thắm mò cua bên chùa
Lòng sư luống những mơ hồ
Bỏ cả kinh kệ tìm cô hỏi chào...
Sư mà còn bắt mắt với những chiếc áo yếm thì
đừng cười chê những kẻ phàm phu tục tử như hắn, nhìn vào mà không bồi hồi thì
chắc thuộc loại "cô đồng Mùi"
Còn một bài thơ hắn thích nói về áo yếm của
nhà thơ Hoàng Cầm trong bài “Hội yếm bay"
........
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tròn căng nuột ấy... ơi!
Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy
Một chiều khổ cực bốn chiều say
Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết
Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây
Hương ngát em lồng kín cõi anh
Yếm đào trút lại phía vô linh
Đung đưa gác lửng nghênh xuân ấy
Đôi núm hồng em nở hết mình.
Nhà phê bình Đặng Tiến viết bài này cũng có
gần chục năm, vào thời đó chưa có nhiều kiểu cách tân về "áo yếm",
lúc hắn linh tinh vài lời, hắn cũng mong là
"Kiếp sau đừng hóa ra người
hóa đôi dải yếm buộc lời tình nhân"
Delta ngày mồng 7 tết
Ara
Áo dài yếm cách tân có kiểu dáng hiện đại mà vẫn
đậm nét
truyền thống
Dải yếm trong văn học – Tiểu luận của Đặng
Tiến
Thơ Tết, thơ Xuân thường là ước lệ. Nhưng qua những ước lệ chúng
ta có được nhiều câu thơ hay, và hay về nhiều mặt: nghệ thuật, tâm cảm và phong
tục. Trên ba kích thước ấy, có lẽ Nguyễn Bính là người lưu lại nhiều thơ Tết,
thơ Xuân hay nhất, từ tâm sự tha hương đến hình ảnh mùa Xuân đất nước hay ngày
Tết dân tộc:
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
(1937, Tâm Hồn Tôi)
Nhà phê bình Đặng Tiến ở
Pháp.
Hình ảnh dải yếm, bắt đầu cũng chỉ ỉà một kỷ niệm, giữa rất
nhiều kỷ niệm:
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? về đâu?
Nhưng “yếm thắm” ở cuối bài thơ Bên Kia Sông Đuống là một hình
ảnh tổng hợp toàn thể thanh sắc bài thơ. Giá trị gợi tình của dải yếm, ta đã
thấy rồi, không cần nhắc. Chỉ nên lưu ý giá trị thẩm mỹ của từ yếm, làm bằng
một câu đầu dài và khép, một nguyên âm đôi (yê) dài và rộng và một phụ âm cuối
(m) môi, dài, Mỗi âm vị như vậy đều có giá trị gợi tình; nói đơn giản: trong
những chữ yêu em, âu yếm, yên ấm, êm ái.. ta đều thấy phất phơ bóng dáng và âm
vang chữ yếm (ngày nay vật dụng tương dượng với dải yếm được gọi là xú-cheng,
hương đồng cỏ nội đã bay đi nhiều lắm). Câu thơ Hoàng Cầm Em mặc yếm thắm, mỗi
từ đều có chữ m đọc thành em. Về từ vựng, tiếng Việt chỉ có hai chữ yếm: y phục
phụ nữ, nới rộng ra thành hình tượng yếm cua, yếm rùa…; và chữ yếm trong nghĩa âu
yếm. Nói thêm về nguyên âm đầu (voyelle initiale) thường tạo cho câu thơ cảm
giác dịu dàng, mềm mại:
– Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc
(Thế Lữ)
– Trời mưa ướt bụi ướt bờ
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em
– Yêu anh thịt nát xương mòn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh
(Ca Dao)
Ngày xưa nhà thơ Đông Hồ có nhà xuất bản tên Yễm
Yễm có lẽ vì hình ảnh về thính giác lẫn thị giác của từ ngữ.
Hoàng Cầm vừa mới xuất bản tập thơ Về Kinh Bắc bị dìm
35 năm nay. Chỉ trong tập thơ mới này thôi, chúng ta đã tìm thấy nhiều hình
tượng đẹp về dải yếm, từ người mẹ:
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
dãy tre xa giấu biệt dải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi
Hàng tre nhả yếm
trả mẹ về
lều dột đón mưa đêm
… Bao giờ Mẹ về
Buổi yếm đào phai vỗ hát ru
(Đợi Mùa)
Cho đến dải yếm “gợn xuân tình trên bộ ngực thanh
tân” (Đinh Hùng) của những ngày hội:
Luồn tay ôm say
giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
(Thi Đánh Đu)
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
(Hội Vật)
Đến lúc nào đó trong sáng tạo, cái yếm mất tính chất hiện thực
của nó, trở thành một hình tượng nghệ thuật có chức năng cấu tứ – như một số
điển cố trong thơ xưa:
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch
Chuông chiều cởi yếm
Chuồng sớm đội khăn
Trưa hè gãy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa soan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
(Đêm Thủy)
Nhưng chức năng cấu trúc (fonction structurante) của hình ảnh
dải yếm trong thơ Hoàng Cầm rõ nhất trong bài Hội yếm bay ở tập Lá Diêu
Bông (1993). Giữa hàng chục đám hội hè trên quê hương Kinh Bắc. Hoàng Cầm
tưởng tượng thêm “huyền sử”, một lễ hội các nàng hoa khôi phải… tung yếm:
Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết
Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây*
Vị trí ưu đãi của dải yếm trong thơ Hoàng Cầm là một biệt lệ, có
thể là duy nhất trong thơ Việt Nam, vì bản thân thơ Hoàng Cầm đã mang sắc thái
đặc biệt, một định mệnh lẻ loi. Ngày nay, trong thơ hiện đại – và đời sống – ta
không còn thấy chiếc yếm, ngoài ký ức những nhà thơ cao tuổi như Đặng Đình Hưng
(thân phụ nhạc sĩ Đặng Thái Sơn):
Bến lạ ngay gầm giường mưa to ngay ở gầm bàn và trong hòm mọi
người chở một con tàu navir trọng tải những hình thù Hồng Hải, căng lên những
cái yếm mùi nồng của đám cưới năm ngoái hong ra khoe và đã đi – những cột đèn
đứng lại (Bến Lạ)
Ngày xưa Tế Hanh đã so sánh u cánh buồm giương to như mảnh hồn
làng”, ngày nay những cơn gió xa lộng vào dải yếm. Trong tập thơ Bóng
Chữ mới đây, Lê Đạt đã vài ba lần sử dụng hình ảnh dải yếm, có khi lấy lại
ý ca dao:
Sếu gọi đò ngang nước đổ
Dải yếm đào gảy cầu
Những cáỉ hôn gửi đi
Biền biệt phù sa
Đất hẹn má mùa nắng hạ
Vườn đồi
ai nhặt lá ô môi
(tr. 45)
Hơi thơ kín đáo, tân kỳ, có phần cầu kỳ vẫn phập phồng hơi thở
trên cơ thể người đàn bà, vừa rạo rực vừa trống vắng, đang hiện thực bỗng biền
biệt như một hẹn hò mới đó đã xa xăm.
Một câu thơ khác, được xem như là bí hiểm…
Mùa chẳng là xuân
Đất dậy men
Trời ghẹ lạnh
Yếm trúc nẩy măng đôi núm sừng bò
(tr. 60)
Hình ảnh đôi vú măng non căng đầy nhựa sống, mà có khi Lê Đạt tô
đậm nét hơn: “cồn đất múp / Sừng gái mười bảy” – Tục ngữ có câu: gái
mười bảy bẻ gãy sừng trâu – Chữ yếm Việt Nam có lẽ do từ yểm chữ Hán nghĩa
là che đậy. Thơ Trịnh Cốc thời Đường có câu: “Thúy yểm trùng môn yến tử
nhàn”: màu xanh (cây cỏ) che kín mấy lớp cửa vào, chim yến bay thảnh thơi.
Có thể Lê Đạt không biết câu thơ Trịnh Cốc, nhưng một số hình ảnh trong thi ca
trở đi trở về qua nhiều thời đại. Hình ảnh mà độc giả Việt Nam ngày nay cho lập
dị, có khi đã có từ thời xa xưa. Dù sao, cùng một ý thơ (che đậy) chữ “yếm
trúc” của Lê Đạt tình tứ hơn chữ “thúy yểm” của Trịnh Cốc. Hoặc câu này nữa:
Lá nẩy chìa
chim yếm đỏ
nhạn thia lia
(tr 34)
Có lẽ “chim yếm đỏ” là do câu dân ca Pháp “Rouge gorge/ Rouge
gorge”? mà Lê Đạt đã trích dẫn (tr. 34) như là động cơ của bài
thơ Chim ức lửa:
Ôi con chim ức đỏ môi đòng
Thả đỏ đốt xứ đồng không anh nhớ
Một thoáng đào
nhen mấy độ hồng
(trang 34)
Khó mà nói rằng những ý thơ trên không có tương giao. Thậm chí,
có khi là Đạt không dừng chữ yếm, người đọc vẫn thấy dải yếm trong bài Quan Họ
(tr. 91):
Tóc trắng tầm xanh, qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non / ngo ngó sông đầy
cây gạo già
lơi tình
lên hiệu đỏ
La lả cành
cởi thắm
để hoa bay
Ta thử làm một việc bạo tay: cởi thắm. Thay vào đó: cởi yếm. Hoa
vẫn bay.
Hoặc thay vào: yếm thắm, Vẫn hoa bay.
***
Ở nước ngoài, hiếm khi chúng ta còn gặp kỷ niệm dải yếm, như
trong câu văn mới đây của Mai Kim Ngọc, rất khiêu gợi:
Tuấn cởi khuy áo em, cởi dải yếm em. Em nghe Tuấn áp mặt vào
ngực em, như trẻ sơ sinh áp mặt vào ngực mẹ tìm sữa. Mặt sông phẳng lặng mà em tưởng
như con thuyền chao đảo, lửa như cháy trong ngực em (…). Như cùng một lúc, em
đang làm vợ làm mẹ…”
(Báo Văn Học, California, số Xuân Ất Hợi 1995, tr. 121-122)
Hoặc trong thơ Trần Hồng Châu (bút danh của Nguyễn Khắc Hoạch,
cựu khoa trưởng trường Văn Khoa, Sài Gòn), trong một thi tập xuất bản tại Mỹ,
có câu:
Em là con gái mười thương
Yếm đào một dải mấy đường nhỏ thon
Thắt lưng hoa lý càng son
Bốn thân áo đẹp gạch non nhuộm màu
(Ước gì sông rộng một gang)
(Nửa Khuya Giấy Trắng, 1992 tr. 106)
Và cùng trong tập thơ ấy, ta lại được đọc:
Tôi lăn mình trên cỏ xanh non
Miệng ngậm nửa vành hoa tường vi
Ôi màu tím nhạt cyclamen của những quầng mắt bài thơ
Của áo ngủ Valisère rung rỉnh thủy triều trên mình em đại lục
hoang vu…
(Giới hạn, s.đ.d. tr. 92)
Thơ, ý thơ và lời thơ cốt lõi ở tự do, xoáy sâu vào thời gian
nhưng cũng trải rộng ra không gian. Đã đành là vậy, cuộc đời là vậy, nhưng
chúng ta vẫn ái ngại cho tâm tình một Nguyễn Bính ngày xưa, khi cô gái “đi tỉnh
về”:
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm. Em làm khổ tôi
Thị thành bôi nhọ em rồi
Nào đâu cái yếm mua hồi sang xuân
Mấy câu này là nguyên bản bài Chân Quê (1937) trong
tập Tâm Hồn Tôi, do nhà Lê Cường in năm 1940. Những bản in sau này đã thay
đổi lời và ý. Giấy trắng mực đen, ngày một ngày hai, còn thay đen đổi trắng,
trách cứ chi cô gái quê chỉ mới ngấp nghé cài… khuy bấm.
No comments:
Post a Comment