Tuesday, February 28, 2023

CỰU TỔNG THỐNG JIMMY CARTER VÀ VIỆT NAM (NGUYỄN QUỐC KHẢI)

 Ôn Lại Lịch Sử: Cựu Tổng Thống Jimmy Carter và Việt Nam

 

(Hình: Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và vợ, Rosalynn Carter, tại New York, 1976.)

Trong 2 năm cuối của Tổng thống Gerald Ford, Hoa Kỳ đã thâu nhận khoảng 150.000 người tị nạn kể từ sau khi Saigon thất thủ vào 30/4/1975. Chính quyền Carter tận tình tiếp tục công tác này trong suốt bốn năm tiếp theo.

-Khi tác giả đang viết bài báo này, cựu Tổng thống Jimmy Carter, năm nay đã 98 tuổi, đang nằm trên giường bệnh chờ đợi cái chết sắp đến. Ông là một người bình dị, chân thật và đạo đức. Ông tận tình giúp người tị nạn Đông Nam Á nói chung và người Việt tị nạn nói riêng. Tôi còn nhớ một buổi chiều vào ngày 19/7/1979, chúng tôi biểu tình trước Tòa Bạch Ốc để vận động chính phủ Hoa Kỳ giúp thuyền nhân tị nạn, do ca sĩ Joan Baez và Refugees International tổ chức. Tổng thống Carter đã mở cửa sổ vẫy tay chào đón chúng tôi và nói với đám đông rằng, ông đã ra lệnh cho Hạm Đội 7 ra khơi, cứu vớt những thuyền nhân!

Hôm đó có rất nhiều Mỹ cũng tham gia, nhân dịp họ vào thủ đô để nghe ca sĩ Joan Baez hát trước Lincoln Memorial, cho người tị nạn Đông Nam Á dưới tiêu đề “A Plea, Not a Protest” với khoảng 10.000 người tham dự. Hàng trăm ngàn người chết trên biển! đã đánh động lương tâm người Mỹ, ngay cả những người từng chống chiến tranh, bênh vực Cộng sản, như Joan Baez. Nghe tin buồn, cũng cầu mong cựu Tổng thống Carter ra đi bình an.

***

Cựu Tổng thống Jimmy Carter (Dân chủ) nhậm chức vào ngày 20/1/1977, hai năm sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Người tiền nhiệm của ông là cố Tổng thống Gerald Ford đã chứng kiến Saigon thất thủ trong cơn hỗn loạn. Carter là người trách nhiệm lèo lái nước Mỹ thời hậu chiến trong khi chiến tranh lạnh sôi động khắp nơi trên thế giới. Sau Việt Nam, năm nước khác lần lượt trở thành Cộng sản, gia nhập vào trục Mạc Tư Khoa-Bắc Kinh, như Lào (1975), Cam Bốt (1975), Angola (1975), Nicaragua (1979), Grenada (1979). Tuy nhiên, đợt bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản sau chiến tranh Việt Nam ít hơn đợt một, với 12 nước đi theo Xã hội chủ nghĩa xảy ra sau khi Ðệ nhị Thế chiến chấm dứt.

*QUAN ĐIỂM CỦA CARTER VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Theo cựu Tổng thống Jimmy Carter, dấn thân vào Việt Nam về cơ bản là một quyết định của Tổng thống John Kennedy. Ông nghĩ rằng Tổng thống Kennedy dự định một sự tham gia hạn chế. Sau khi người Pháp rút lui, Hoa Kỳ dự tính sẽ hoàn thành vai trò bảo vệ Á Châu chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Sau khi kế thừa Tòa Bạch Ốc, Tổng thống Johnson ngày càng tham gia sâu hơn và biến Việt Nam thành vấn đề của niềm tự hào dân tộc. Cái tôi cá nhân và cam kết của ông ta đã chiếm ưu thế.

Theo cựu Tổng thống Carter, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp sự ngoan cường, mưu mô của Bắc Việt và các lực lượng nổi dậy chống lại Hoa Kỳ. Trái lại, Hoa Kỳ đã đánh giá không đúng khả năng, cần sự dài lâu của mình và những cam kết giúp đỡ của những người Việt Nam cùng phe với Hoa Kỳ.

Nói tóm lại chiến tranh Việt Nam do Tổng thống Kennedy khởi xướng, đã leo thang và mở rộng rất nhiều dưới thời Lyndon Johnson. Thuyết Domino là một mối đe dọa thực tế, nhưng khi nhìn lại, có lẽ đã bị “phóng đại” như một nguyên nhân nào đó để tham gia vào Việt Nam.

Cựu Tổng thống Carter nghĩ rằng, đây lần đầu tiên trong lịch sử, Hoa Kỳ đã cam kết toàn bộ quốc gia, để tiến hành một nhiệm vụ kết hợp chính trị và quân sự, nhưng Hoa Kỳ đã thất bại! Đây là một một đòn giáng mạnh vào lòng tự trọng của Hoa Kỳ, bỏ rơi đồng minh! và có thể là một đòn khá nặng nề đánh vào lòng tự trọng toàn thế giới về Hoa Kỳ, theo sự đánh giá của người ngoài cuộc.

Trong lịch sử, Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách gây chiến tranh, xâm lược một quốc gia, ném bom một quốc gia, tấn công một quốc gia, chỉ khi an ninh của Hoa Kỳ bị đe dọa trực tiếp. Tiền đề về Việt Nam là Hoa Kỳ bị đe dọa vì những lời tuyên bố, những lời giải thích bởi Tổng thống Johnson và thậm chí cả Dwight Eisenhower và Kennedy. Có một mối đe dọa rằng chủ nghĩa Cộng sản sẽ thắng thế trong toàn bộ lĩnh vực Á Châu vì cả Liên Xô và Trung Quốc đều giúp đỡ người Việt Nam. Vào thời điểm đó chính sách của Hoa Kỳ, là chỉ dùng đến chiến tranh nếu an ninh của Hoa Kỳ bị đe dọa trực tiếp.

Theo cựu Tổng thống Carter, chiến tranh Việt Nam trở nên tồi tệ đối với Hoa Kỳ, với thất bại phơi bày và rõ ràng. Hoa Kỳ không giữ đúng lời hứa! Quân đội rút bằng máy bay trực thăng trên nóc nhà vào phút cuối. Đối thủ của Hoa Kỳ ở Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn về chính trị và quân sự.

Chiến tranh Việt Nam đã gửi một tín hiệu cảnh báo đến toàn xã hội Mỹ, bao gồm các thành viên của Quốc hội, các Tổng thống, và công chúng, rằng Hoa Kỳ nên thận trọng hơn trong các phiêu lưu quân sự khác, đặc biệt là khi Hoa Kỳ tự gây nguy hiểm cho tầm vóc của chính mình. Một trong những bài học là nếu cần phải tham chiến, Hoa Kỳ cần có một cam kết tối đa của cộng đồng quốc tế, với tư cách là những đồng minh thực sự thân thiết và những người bạn cam kết và những người ủng hộ càng tốt. Không bỏ đồng minh ở nửa chừng cuộc chiến.

*CARTER ÂN XÁ CHO NHỮNG THANH NIÊN TRỐN QUÂN DỊCH

Cựu Tổng thống Carter tham dự lễ nhậm chức vào ngày thứ Năm, 20/1/1977. Ngay sau khi buổi lễ chấm dứt, ông đã đi vào bên trong Tòa nhà Quốc hội để ký một chỉ thị tha thứ cho tất cả những người đã trốn tránh nghĩa vụ quân dịch trong chiến tranh Việt Nam và những người đã trốn qua Gia Nã Ðại, nhưng không tha thứ cho những người lính đào ngũ khỏi quân đội. Chỉ thị có hiệu lực vào ngay hôm sau.

Đây là một vấn đề chính trị rất khó khăn đối với Cựu Tổng thống Carter. Ông tâm sự rằng hành động ân xá không phải là điều phổ biến nhất vào lúc bấy giờ, nhưng đó là điều đúng đắn nên làm, một cơ hội để hàn gắn đất nước bị chia rẽ, vượt ra khỏi Chiến tranh Việt Nam và nỗi ám ảnh Việt Nam, lật qua trang sử, để tiến vào một kỷ nguyên khác của cuộc sống.

Quyết định ân xá của Cựu Tổng thống Carter đã tạo ra rất nhiều tranh cãi. Ông bị chỉ trích nặng nề bởi các nhóm cựu chiến binh và những người khác vì đã cho phép những kẻ vi phạm pháp luật, không yêu nước, được ra đi mà không bị phạt. Trái lại, những tổ chức ân xá chỉ trích Carter vì không ân xá những người đào ngũ, những binh lính bị trục xuất ra khỏi quân ngũ một cách nhục nhã, hoặc những người dân thường biểu tình phản chiến bị truy tố vì sự chống đối của họ.

Tổng cộng, khoảng 100.000 thanh niên Mỹ đã ra ngoại quốc vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, để tránh phục vụ trong chiến tranh. Khoảng 90% đã đến Gia Nã Ðại và được coi như là những di dân hợp pháp, mà Gia Nã Ðại đang cần cho lực lượng lao động. Vẫn còn những người khác trốn bên trong Hoa Kỳ. Ngoài những người tránh quân dịch, khoảng 1.000 quân nhân đào ngũ cũng đến Gia Nã Ðại.

Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục truy tố những người trốn quân dịch. Tổng cộng có 209,517 nam giới chính thức bị buộc tội vi phạm luật quân dịch và khoảng 360.000 người khác chưa bao giờ bị buộc tội chính thức. Nếu họ trở về Hoa Kỳ, những người từng trốn tránh ở Gia Nã Ðại hoặc các nơi khác phải chịu án tù hoặc buộc phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1976, Jimmy Carter đã hứa sẽ ân xá cho những kẻ trốn quân dịch. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, Carter đã thực hiện lời hứa của mình. Nhiều người Mỹ đã trở về nhà, nhưng ước tính có khoảng 50.000 người định cư lâu dài ở Gia Nã Ðại vì trẻ và có học thức, dễ đáp ứng với xứ sở mới.

Cựu Tổng thống Carter có một con trai lớn từng phục vụ tại Việt Nam. Khi còn là sinh viên tại Georgia Tech, anh ta bỏ học để thi hành quân dịch và là một trong những người đã sống sót trở về. Anh đã về thăm nhà ở Plains hai lần trong khi còn ở trong quân đội. Anh ấy không thích mặc đồng phục trong khi về nhà nghỉ phép, bởi vì những “phong trào phản chiến” có rất nhiều sự khinh miệt và xúc phạm và lên án anh ta vì đã ngây thơ, vì đã rời khỏi trường Đại học Georgia Tech và qua Việt Nam. Anh đã bị chính nhóm đồng bạn lên án.

*CARTER GIÚP TỊ NẠN VIỆT NAM

Trong hai năm cuối của Tổng thống Gerald Ford, Hoa Kỳ đã thâu nhận khoảng 150.000 người tị nạn kể từ sau khi Saigon thất thủ vào 30/4/1975. Chính quyền Carter tận tình tiếp tục công tác này trong suốt bốn năm tiếp theo.

Tổng thống Carter đã ra lệnh cho các tàu Mỹ đón những người tị nạn chạy trốn khỏi Đông Nam Á bằng thuyền và sẽ cho phép những người tị nạn tái định cư ở Hoa Kỳ nếu họ muốn. Quyết định này ảnh hưởng đến tất cả các tàu vận tải của Mỹ hoặc tàu đăng ký tại Hoa Kỳ. Trước đó, nhiều tàu đã từ chối đón người tị nạn để tránh những khó khăn tại các hải cảng sắp đến. Quyết định đáp ứng sự gia tăng đột ngột vào tháng 5 và tháng 6, 1978 về số lượng những người được gọi là “thuyền nhân” hầu hết từ Việt Nam đến các cảng Á Châu, hầu hết ở Thái Lan và Mã Lai Á, và ở Úc.

Vào đầu 1978, số lượng người tị nạn đến các cảng này khá ổn định ở mức khoảng 2.000 người mỗi tháng, nhưng vào tháng 5, con số này đã tăng lên 5,800 người và tiếp tục ở mức đó vào tháng 6. Một số tổ chức tị nạn đã ước tính rằng ít nhất một nửa số người trốn thoát bằng thuyền từ Việt Nam đã chết trên biển. Theo lệnh của ông Carter, thuyền trưởng của các tàu Mỹ giờ đây có thể bảo đảm với chính quyền ở bất kỳ cảng nào rằng các trường hợp của người tị nạn sẽ được Cơ quan Di trú và Nhập tịch giải quyết nhanh chóng và những người tị nạn sẽ sớm trên đường đến nơi họ chọn để tái định cư.

Một trong những thành quả lớn nhất của Tổng thống Carter trong công tác cứu giúp thuyền nhân là ông đã thành công trong việc thiết lập Đạo Luật Tị Nạn 1980 (Refugee Act of 1980), được Thượng viện đồng nhất thông qua vào cuối năm 1979 và được Tổng thống Jimmy Carter ký thành luật vào đầu năm 1980.

Đạo luật về Người tị nạn năm 1980 đã sửa đổi Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch trước đó và Đạo luật Hỗ trợ Người tị nạn và Di cư. Đạo luật mới đã nâng mức trần hàng năm cho người tị nạn từ 17.400 lên 50.000, đồng thời tạo ra một quy trình điều chỉnh mức trần người tị nạn để đáp ứng các trường hợp khẩn cấp.

Đạo luật “Refugee Act of 1980” và tất cả các chương trình tị nạn tiếp theo. Các chương trình tị nạn Orderly Departure Program (ODP bao gồm HO, U11, V110), Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees (ROVR), Humanitarian Resettlement (HR) và American Homecoming (AH) được thiết lập để định cư người Việt tị nạn đều dựa theo Đạo Luật Người Tị Nạn 1980.

No comments: