CHUYỆN
CÔ BÉ ĂN XIN & CHÚ
THƯƠNG BINH
MAI
THỊ MÙI
Mùng
3 tết Đinh Mão 1987 tôi cùng bố mẹ bắt tàu lửa tuyến Biên Hòa-Sài Gòn.
Trên
tàu có một cô bé cùng cha đi ăn xin. Cô bé trạc tuổi tôi hay hơn 2-3 tuổi gì đó
cầm chiếc nón vải đi loanh quanh các toa tàu. Người cha bị cụt hai chân tới
háng. Chú buộc một tấm cao su dưới mông. Ngón đàn của chú không điêu luyện, chỉ
đủ để “hành nghề”. Cô bé dường như cũng chỉ thuộc rất ít bài hát. Cả buổi tôi
chỉ nghe cô hát mỗi bài “Hồi Tưởng”. Cô vừa hát vừa đi khắp các toa tàu. Người
cha nếu thấy con đi quá xa, tiếng hát không còn ăn với tiếng đàn đệm nữa thì
lại khó nhọc lê thân theo con. Cô bé đang tuổi chim non, giọng hát khá trong
trẻo. Cô hát với giọng Nam thuần hậu không trau chuốt “ Biềng biệc một bóng đím
từng cơng gió đông. Anh nhớ tui mong đím lá thu zàng bao lần rồi anh biếc
không?”.
Khi
ấy người Nam còn nhiều hơn người Bắc. Ra ngoài đường nghe giọng Nam còn khá
nhiều. Trên tàu còn nhiều người bán hàng rong như thuốc lá, trà đá, bánh kẹo,
đậu phộng, cóc, ổi. Tôi thấy nhiều người mua. Mua rồi để đó chứ không ăn. Người
ta thấy người bán vất vả đáng thương thì mua ủng hộ, cũng không kì kèo trả giá.
Người ta mua cho con mình ăn và cũng cho cả cô bé hát ăn nữa. Cô bé tuổi hồn
nhiên, vô tư ngừng hát ngồi ăn. Mỗi lần nhận đồ ăn cô đều vòng tay lễ phép cám
ơn, nét lễ nghi của con nhà có giáo dục, nề nếp.
Khi
ấy thương bệnh binh đổ về Quân Y Viện 7B rất nhiều. Mấy chú thương binh phe
thắng cuộc khi ấy là niềm kinh hoàng của các chị bán chôm chôm khu Ngã Tư. Buồn
buồn là mấy chú tiến lại gần sọt chôm chôm xin đểu. Có chú không xin thì giằng
nghiến. Mấy chị mấy cô bị áp bức riết phản kháng thì bị mấy chú giơ nạng dọa
đánh (và cũng có lần mấy chị ăn nạng thật). Những năm ấy xe tải chở mía từ các
nông trường về rất nhiều. Quốc Lộ 1 khi ấy (đường Nguyễn Ái Quốc bây giờ) là
con đường huyết mạch. Ngày ngày các xe tải mía ùn ùn từ hướng Hố Nai đổ về Biên
Hòa.
Hố
Nai khi ấy là vùng cao. Đoạn đường từ cầu Săn Máu đổ về Ngã Tư là một con dốc.
Xe tải vừa chạy qua cầu 1 chút là đã thấy bóng rồi. Các chú thương binh ngồi
sẵn hai bên đường đón lõng. Ban đầu chỉ là đu theo xe rút mấy cây mía. Càng về
sau mức độ trấn lột càng tàn bạo hơn. Mấy chú bắt xe dừng hẳn lại hất mấy bó
mía xuống đường, sau đó bán lại cho mấy chị bán trái cây. Hết trò trấn hàng đến
trò trấn tiền. Mấy chú bắt tài xế nộp tiền. Cánh tài xế bàn nhau đóng kín cửa
kính xe thì bị mấy chú ném đá hoặc lấy nạng phang cho vỡ. Về sau thành thông
lệ, hễ xe chạy gần đến cổng Quân Y Viện thì lơ xe tự giác xuống “làm lễ”. Chả
biết đây có phải là nguồn gốc của hình
thức làm lễ khi bị CSGT làm luật ngày nay không?
Khi
có tiền rồi mấy chú chả tha thiết gì chiến lợi phẩm nữa. Rau củ quả, trái cây
mấy chú bỏ mứa. Ngầm ý cho bọn con nít. Bọn con nít tụi tôi đố đứa nào dám lại
lấy. Chờ cho mấy chị mấy cô tới lấy về cho ăn. Tuy vậy, lúc ấy cứ nhắc đến
“thương binh” là trẻ con im phăng phắc như nghe tới ông Kẹ vậy.
Tôi
vốn nhát gan. Những hình ảnh ấy thật sự gây ác mộng cho đầu óc non nớt của một
đứa bé gái. Thật lạ là “chú thương binh” trên tàu lửa lại không như vậy. Dù
thân thể thương tật đau đớn, lê thân khó nhọc mà chú vẫn tươi cười, nói năng
hòa nhã. Ai cho tiền chú đều gật đầu cảm ơn. Ngày ấy tôi không tài nào hiểu nổi
tại sao lại có “chú thương binh” trên tàu lửa không mặc áo may-ô, không rút
mía, không lấy nạng phang người khác, mắt không vện lên tia máu. Đến
nhiều năm sau nữa tôi cũng vẫn chưa hiểu nổi tại sao một số thương binh được
hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước, con cái họ khi học hành, thi cử hay công
tác đều được ưu tiên, mà một số “thương binh” lại lay lất ăn xin, làm
thuê, vác mướn, làm những công việc nặng nhọc. Rồi một ngày tôi mới hiểu, họ là thương binh của bên bại trận.
“Đim
trắng đim chong đèn tôi viếc những chiệng xưa bọn mình”, giọng Nam líu lo của
cô bé vang khắp các toa tàu. Khi ấy tôi tưởng là “trong đèn”, tức là trong ánh
đèn. Ngày ấy đâu phải nhà nào cũng có điện dùng, nên mới có khái niệm xài điện
ké, tức là câu điện từ nhà có đồng hồ điện. Có đồng hồ điện riêng là niềm hãnh
diện đến nỗi mỗi khi rao bán nhà kèm theo câu “điện nước riêng” là nâng
tầm căn nhà lên một bậc. Đèn ở đây là đèn dầu. Chong đèn có nghĩa là thắp
đèn. Người cha cô bé ấy đã bao đêm chong đèn nhớ về người đồng
đội như hình với bóng, kết thân đôi đầu xanh? 12 năm sau ngày “giải phóng” chú
vẫn hoài niệm về những ngày đón nhau khi bình minh, gối tay nhau tàn canh, nhìn
đời bằng ánh mắt chân tình sáng long lanh, vào đời bằng tiếng hát trung thành.
Tiếc gì lá xa cành!
Những
năm 1980 phong trào vượt biên vẫn còn nhiều. Với thân thể tàn phế như thế chắc
chú không thể nào “ôm phản lao ra biển” như bao đồng đội, đồng bào đau thương
của mình. Với tình cảnh đi hát xin ăn như thế vàng đâu chú đưa cho chủ tàu mà
lên thuyền?
Cô
bé hát “Hồi Tưởng” năm nào, vẫn mong rằng tình yêu thương của những con người
nhân ái chưa bị nhuốm màu thời đó nuôi dưỡng chị qua cơn oằn mình của cả dân
tộc. Có phép màu nào đó đã đưa chị đến chân trời mới không? Dù
chị nơi đâu, ký ức tôi vẫn nhớ về cô bé nón vải trên chuyến tàu lửa mùng 3
tết Đinh Mão 1987.
MAI
THỊ MÙI
No comments:
Post a Comment