Trên Đỉnh Quê Hương
*Cảm ơn Thầy Nguyễn Lân
đã khuyến khích để em ghi khắc chuyến đi này
Mùa Lễ Tạ Ơn, Nov-28 th -2022
Đó là khoảng thời gian xốn xang, đau đớn,
oằn oại nhất; là khoảng thời gian bắt đầu cho những tháng ngày tôi không còn thấy
mẹ trên cõi đời này nữa… Bằng sự vội vàng, nhanh chóng chưa từng có, tôi lấy vé
phi cơ để bay về phương Đông, trở lại nơi tôi đã đứt ruột quay lưng từ bỏ mấy
chục năm về trước.
Thời gian lúc ấy, Mẹ đã rất an nhiên
trong giấc ngủ cuối cùng của một kiếp Người; còn tôi chỉ mới bắt đầu học cách
thương đau cho quãng đời còn sót lại.
Đêm đó, của ngày-tháng-năm 2003… tôi ngồi ủ rũ
như tượng đá trong lòng chiếc máy bay mà các nhân viên phi hành nói quá rành
ngôn ngữ Việt:
-Kính thưa quý khách, chúng
ta đang bay vào không phận Việt-Nam…
Tự nhiên tôi cảm thấy sóng lưng mình lạnh
buốt, và ngàn giọt nước mắt rơi vỡ im lìm lúc nào tôi cũng không hay. Tôi đã
đang được âm thầm có mặt trên đỉnh quê hương của chính mình để khóc.
Tôi bỗng ngập ngừng tự hỏi, dù biết
không ai có thể trả lời:
-Những người đoạt quyền bên dưới có chấp
nhận “sự trở lại” bất đắt dĩ này không, cho dù mình vẫn còn nói quá rành
Ngôn-Ngữ-Mẹ?
Tôi quay nhìn người nữ tiếp viên hãy còn
khá trẻ, khá xinh xắn dễ thương đang mang một chút thức ăn cuối cùng cho chuyến
bay sắp về nơi bến đậu. Em tươi cười, thân thiện nói với tôi:
-Trông cô xanh xao mệt mỏi quá. Cô
không ngủ được suốt cuộc hành trình hay sao vậy, thưa cô?
-Cảm ơn em, tôi ngủ được chớ,
chỉ có trái tim “nó” làm reo, nên cứ thao thức một mình.
Cô bỗng nhìn tôi với ánh mắt mơ huyền
hình dấu hỏi rồi lặng lẽ quay đi. Tại sao mình lại cất công trả lời nhập nhằng
không dứt khoát như vậy chớ? Trái tim tôi thức để làm gì trong suốt hơn mười mấy
giờ bay?...
Từ lúc ngồi yên trong lòng ghế, tâm tư
tôi quay quắt với quá khứ của một thời đáng nhớ. Một quá khứ khá bình thường
như mọi người khi đã được vui sống quãng đời tự do tự tại trên đất nước của
chính mình. Nhưng những ngày tang thương ấy, tất cả dân chúng bên này bờ của
dòng sông ô nhục đều nổi tiếng hết mà, đúng vậy không?! Nổi tiếng đến giặc phải
sợ gom nhốt vào tù nhỏ. Nổi tiếng đến độ phải âm thầm cỡi sóng ra đi. Bằng mọi
phương tiện có thể, những tâm hồn yêu chuộng Tự Do đã cố gắng tháo chạy khỏi cảnh
Thiên Đường Kinh Dị.
Bây giờ vì mẹ, tôi nén lòng quay lại nơi
quá thân quen mà vô cùng lạ lẫm. Nơi tôi chưa muốn bước vào, dù biết rành đó mới
chính là quê nhà thiêng liêng yêu dấu nhất. Liệu có bất trắc gì không? Thời
gian này, tuy họ đã tỏ ra hòa hoãn với đối phương vì màu xanh tươi mát của đồng
đô la Mỹ, khiến mùi Tham Nhũng ngày càng nồng nàn quyến rũ hơn, vượt xa thương
hiệu nước hoa Chanel của Âu châu lâu lắm rồi. Thôi yên tâm đi nghen, mình đang
cỡi mây, chắc sẽ bình yên hơn cỡi sóng.
Nhìn lại trang phục, tôi chợt nhận ra
mình là một “việt kiều” kỳ cục nhất. Tóc cột cao đuôi gà, mặt mộc xanh xao, áo
quần màu tang giản dị, không hành lý… Tôi về nước với trái tim tan nát, đồng
hành cùng năm loại trái cây quý hiếm, đặc sản tươi ngon của các siêu cường để
dâng kính mẹ tôi.
Trôi theo dòng người, tôi bước vào phòng
chờ để nhận Landing Visa và xuất trình giấy tờ cần thiết, theo lời dặn khá kỹ
càng của nhân viên phòng bán vé ở Bolsa:
-Xin anh cho nhập cảnh…
Người thượng úy (hay thượng tá gì đó tôi không
còn nhớ rõ), cúi xuống xấp giấy tờ, rồi ngước lên chăm bẩm nhìn tôi… Lời nói
rít qua kẻ răng úa vàng, giống như được thấm nhuộm bằng hơi của thuốc lá
Marlboro tư bản:
-Chị chưa được phép về Việt
Nam trong lúc này đâu nhé.
Tưởng mình nghe lầm vì mệt, tôi ôn tồn hỏi
lại:
-Xin anh coi kỹ giùm. Tôi có
tất cả giấy tờ cần thiết để vào Việt-Nam thưa anh.
-Chị ở nước ngoài lâu quá
nên nghe không hiểu rành tiếng Việt nhỉ? Tôi không cho phép chị nhập cảnh, nghe
rõ chưa?
Trong một phần ngàn tỷ thời lượng, trái
tim tôi đã thật sự ngừng đập. Tôi cảm nhận như có bàn tay vô hình của ai đó
đang cố ý bóp nghẹt hai cánh phổi khiến tôi không thở được. Tôi vội bấu lấy cạnh
bàn, nơi người thượng úy đang lạnh lùng, khinh khỉnh nhìn tôi.
-Tại sao chớ? Tôi có đầy đủ
những gì một người ngoài nước cần có để vào VN, nên anh kh…
-Tôi nói không là không.
Không cần giải thích. Chị tránh ra cho chúng tôi làm việc.
Trở lại chiếc ghế mà từ đó tôi đã đứng
lên, tôi bắt đầu bình tỉnh đôi chút để nhận biết tình trạng bất ổn mà mình cần
kiên trì, cố gắng để vượt qua, và tự nhủ lòng, bằng mọi giá phải vào được ngôi
nhà tuổi thơ, hầu có thể ngắm nhìn khuôn mặt dấu yêu của mẹ lần sau cuối.
Lúc này, dường như khách trên cùng chuyến
bay đã được cho ra gần hết. Vài người khách ngoại quốc, có lẽ cũng đã gặp rắc rối
điều gì, đang thấp thỏm ngồi chờ để quay trở về bản xứ. Lặng lẽ ngắm nhìn anh
thượng úy làm việc, tôi lẩm bẩm thì thầm với mẹ:
-Thưa
mẹ, con phải vào được nhà mình đêm nay để nắm bàn tay mẹ. Mẹ chờ con nhe mẹ.
Xuống phi cơ khoảng 10 giờ tối, lúc bấy
giờ đã sắp đến nửa đêm. Khi người khách cuối cùng của chuyến bay ra khỏi cổng,
tôi tiến tới trước mặt anh thượng úy:
-Anh muốn gì nơi tôi xin cho
biết. Mẹ tôi vừa qua đời. Tôi về tiễn đưa bà, không phải đi du lịch đâu. Anh
làm ơn nghen.
Nhìn nét mặt hắn có vẻ dìu dịu đôi chút,
tôi mừng thầm nói tiếp:
-Anh xem kỹ passport giùm
nghen anh, đây là lần đầu tiên tôi trở lại Việt-Nam. Thật lòng“báo cáo anh”, nếu
mẹ tôi chưa mãn phần, tôi cũng chưa trở lại để làm anh khó xử... (đúng ra tôi chỉ muốn nói “tôi cũng chưa thèm trở lại để khỏi
bị anh làm khó dễ).
Bỗng hắn đứng bậc dậy, chỉ tay vào bảng
tên đang mang trên ngực áo:
-Chị có đọc thấy gì đây không vậy?
Ai thèm làm anh em với mấy người.
Trong một phần ngàn tỷ thời lượng, tôi bỗng
nhập tâm trở lại bản tính bẩm sinh, ẩn trong tinh thần con dân nước Việt, nên
không còn biết sợ hãi là gì khi bị chèn ép đến chân tường:
-À, thì ra anh muốn tôi gọi anh bằng
cấp bực, phải không anh “thượng úy”? Nhưng sao anh thượng úy mau quên quá vậy?!
Lúc mới tiến chiếm SAIGON, các anh muốn dân chúng gọi lính miền Bắc bằng “anh,
em”- Bắc-Nam thống nhất một nhà”. Chỉ có “lính Thiệu” tham quyền tham chức mới
gọi nhau bằng cấp bậc, thượng úy lỡ quên mau quá vậy sao?
-Chị nói đủ chưa? Bây giờ chị
muốn gì mà dài dòng lan man khiêu khích thế nhỉ?
-Ông không có bất cứ điều gì
đáng để tôi muốn cả. Tôi chỉ muốn về thăm mẹ tôi thôi. Nếu được vậy, tôi cảm ơn
thượng úy nhiều vô số kể. Nói thiệt nghen, khi biết ông cho phép gọi là Thượng
Úy, tôi bỗng cảm thấy gần gũi với ông hơn, với SÀIGON cũ của tôi nhiều lắm. Mẹ
tôi đã mãn phần, nhưng tôi biết bà còn nắm nuối mong chờ được gặp lại đứa con
ly hương lần cuối. Đây là số điện thoại ngôi nhà tôi sẽ về, thượng úy có thể gọi
để kiểm chứng “hiện trường”…
Thấy hắn lặng im như đang thưởng thức được
tôn vinh bằng cấp bậc, tôi vội vàng đưa hắn một dãy những con số điện thoại ở
VN 84-9-623-18…
-Thôi được rồi, bây giờ chị
ngồi xuống, viết đơn xin về nước, tôi sẽ cho chị ra cổng.
“Xin về nước à? Trở lại tôi còn chưa muốn,
còn lâu mới xin về”. Tuy thầm nghĩ như vậy, nhưng tôi mừng lắm, vì biết hắn sắp
cho tôi vô. (Luật lệ gì đâu, hắn chỉ muốn tỏ ra có quyền có uy hà hiếp “thứ Việt
Kiều” không thèm đút lót như tôi).
Thưa thượng úy, tôi xuất
thân là dân xứ dừa, ít được học hành, tay cứng như rể dừa nên viết chữ tung
tăng cua bò bởi không thường cầm viết. Viết đơn là viết gì vậy? Ông đọc tôi sẽ
viết theo y chang, làm ơn đi nghen ông? Như vậy sẽ nhanh gọn, và để tôi khỏi bị
ông cằn nhằn xỉ vả nữa, tội nghiệp mà ông ơi.
Chắc mặt mày tôi thảm não lắm nên hắn lại
chăm bẫm nhìn tôi. Cái nhìn khiến tôi thật sự sợ hãi và tự nhủ, hắn còn muốn
hành hạ mình đến khi nào nữa đây?! Tôi bắt đầu nghĩ đến những bàn tay nắm chặt;
những lời căn dặn chí tình của các bạn ở Mỹ trước lúc lên đường:
-Có gì bất ổn, nhớ gọi ra nghen. Cộng
Đồng của mình bên này sẽ tìm mọi cách để tiếp tay giải quyết…
Bỗng như có phép lạ, hắn mở passport của
tôi ra, ngắm nghía tấm hình tới lui một lần nữa, rồi lẫm bẫm:
-Mặt mày sáng sủa coi cũng tạm
được ai ngờ lại dốt chữ, rõ chán. Thôi được rồi, một đồng chí của tôi sẽ giúp
chị viết đơn. Nhưng phải nghiêm túc làm việc cho nhanh gọn đấy nhé.
Tôi thầm gọi mẹ. Mẹ ơi, chắc mẹ phù hộ
nên nghe hắn nói con dốt mà con vui lắm, con hạnh phúc lắm. Mẹ biết mà, phải
không mẹ? Con của mẹ nhất quyết phải về nhà gặp cho được mẹ chớ không đành chịu
thua.
Cầm tờ giấy và cây viết họ đưa, tay tôi
run vì mừng; tay tôi run rẫy hơn vì niềm đau, vì nỗi nhục khi đặt nét bút đầu
tiên lên mảnh đất quê nhà mang tên Tân Sơn Nhất của VNCH dấu yêu thời dân còn
làm chủ câu “Cộng-Hòa-Xã-Hội-Chủ-Nghĩa-Việt-Nam, Độc-Lập Tự-Do Hạnh-Phúc”…
Ngoài Cha Mẹ, Thầy Cô, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi phải viết theo
hướng dẫn của “người anh em ngồi ngay trước mặt mà ngàn trùng xa”. Xem ra, tuổi
đời của hắn còn nhỏ hơn cả tuổi con tôi nữa trời ạ!
Tôi chính thức được vào Việt Nam tiễn biệt
mẹ tôi, gần 4 giờ sáng của ngày hôm sau. Thời gian cho phép chỉ nửa tháng phù
du quý báu nhất trong đời.
Sài-Gòn chốn cũ trước mắt tôi đang phủ
trọn vẹn một màu tang. Tang đất nước, tang chiến sĩ, tang bạn hữu, mà lại còn
đang cưu mang thêm màu tang hiền-mẫu. Nửa tháng để lo đưa bà về nằm trong nghĩa
trang gia đình ở thôn làng Bến-Tre.
Nhìn chiếc ghe nhỏ xíu chở ngôi nhà cuối
cùng của mẹ trôi êm trên khúc sông Vàm Ba lạc, con đứt từng khúc ruột mẹ ơi.
Dòng sông quê hương ngày nào mẹ con mình đã bì bõm ngụp lặn theo con nước lớn
ròng đượm đầy phù sa nơi quê ngoại. Đôi lúc Mẹ ngồi nghỉ mệt trên bờ, luôn miệng
khuyến khích con tập bơi cho giỏi:
-Con ở miền sông nước mà không biết bơi, lêu lêu mắc cở à nghen con gái…
Chiếc thuyền con đưa Mẹ về trên dòng sông tuổi thơ “Chiều nay về
tới quê xưa, biết là bao thương nhớ cho vừa…” *Nhạc phẩm Thuyền Viễn Xứ-Phạm Duy
Bây giờ mẹ bay quá xa rồi, ai là người
thay thế mẹ để khuyến khích, để tập luyện con bơi ra khỏi từ trường miệt thị
khi phải cố hết sức để bơi tới nhà từ trên đỉnh quê hương?
Mười ngày nhanh chóng trôi qua. Từ tờ mờ
sáng đến tối khuya, nhìn tới nhìn lui sắp xếp các phương tiện cho cuộc lên đường
của mẹ đều đã được thực hiện tương đối chu toàn. Vào ngày thứ mười hai, tôi quyết
định rời khỏi Việt Nam. Dòng họ và gia đình anh chị em lưu giữ mãi, nhưng tôi
không muốn làm theo sự áp đặt của tên gác cửa chết tiệt ấy nữa. Tôi đã tạm lo
xong cuộc hành trình cho mẹ. Bây giờ đến cuộc hành trình của riêng tôi, do tôi
quyết định. Thuở ấy, chốn ấy, những con người như thế ấy, làm sao giữ được lòng
người ở lại lâu hơn được nữa.
Tôi lấy vé “cỡi mây” trở về ngôi nhà dấu
yêu bên Mỹ. Hành lý mang ra chỉ vỏn vẹn một tượng Phật Thích Ca tạc bằng đá Non
Nước trắng, và một tượng Phật Bà Quán Thế Âm chạm trỗ bằng gỗ nâu, được đánh
quang dầu bóng loáng tuyệt vời. Nghệ nhân của Việt Nam mình, từ nào đến giờ nổi
tiếng khéo tay. Non Nước và Gỗ Rừng, tôi rất muốn mang theo.
Tôi trình giấy tờ, đặt thùng báu vật qua
máy scan và nhanh chóng được cho qua cổng, sẵn sàng bay khỏi quê hương. Nhìn
bao quát chung quanh phòng chờ đợi, hình như có điều gì đó làm tôi xót xa. Trái
tim tôi lại trở chứng, muốn “làm reo” lần nữa cho đở buồn ở phút cuối này
chăng?
Bước ra khỏi ghế, tiến đến trước mặt người
nhân viên đã rất nhã nhặn khi cầm pastport của tôi khi nãy, tôi đưa cho em tờ
tiền năm đô la Mỹ cuối cùng còn sót lại trong túi (tôi cũng còn chẵn .75 xu nữa),
và nói với em:
-Cô
tặng em nè, đem về mua bánh kẹo cho con, hoặc muốn làm gì tùy ý. Cô chỉ có bấy
nhiêu thôi, nhưng đây là tấm lòng của cô…
Người nhân viên chưa vội cầm tiền, chưng hửng
nhìn tôi, như thể em đã nghe lầm một điều “dị hụ” mà ở vị trí làm việc em đang
ngồi, có thể, chưa từng xảy ra trước đó. Tôi mới loáng thoáng nghe lời cảm ơn
nhỏ nhẹ của em thì một giọng nói lạnh lùng khác đã vang lên từ phía sau lưng:
-Mời cô đến phòng hải quan để
đóng thuế.
Cũng cùng lúc ấy, tiếng loa “léo nhéo” gọi
mời, tất cả hành khách hãy tuần tự bước vào lòng con chim sắt, chuẩn bị lên đường.
Trong một phần ngàn tỷ thời lượng, trái
tim tôi lại đập trống liên hồi. Trời ạ, chuyện gì xảy ra nữa đây hỡi Thượng Đế??!.
Những người làm việc ở phòng Hải Quan
lúc đó, mặt mũi hãy còn non choẹt, chắc thuộc gia đình COCH. Hẳn là như thế.
-Các chú muốn tôi đóng kiểu
thuế gì?
-Tại sao chị dám mang đồ quốc
cấm ra khỏi nước?
-Đồ quốc cấm là thứ gì chú
nói rõ và nhanh dùm một chút, đến giờ tôi phải lên máy bay rồi.
-Một bức tượng bằng đồng đen.
-Ở đâu?
-Đang nằm trong chiếc
Samsonite của chị đây chứ đâu.
Hắn nhìn tôi chăm bẩm đầy khiêu khích,
giống hệt ánh nhìn của tên thượng úy mười hai ngày trước, như để áp đảo tinh thần
của kẻ tội đồ. Tôi đâu có tội gì để bị gọi là phạm mà phải sợ.
Nhưng tôi rất sợ bị trễ chuyến bay. Tôi
không muốn dằn co với chúng nữa. Cầm chìa khóa, tôi mở vội chiếc va li có tượng
Phật, đang được chúng để trước mặt, đẩy mạnh về phía tên trưởng nhóm:
- Đây là tượng đồng đen của
Xã-Hội-Chủ-Nghĩa các chú sao?
Nhìn nét mặt của hắn lúc ấy, tôi bỗng nhớ
đến lời chọc ghẹo của mẹ tôi:
-Lêu lêu mắc cở à nghen…
Có lẽ quê quá mất khôn, ngập ngừng một
chút, hắn nói tiếp:
-Mặc dù là tượng đá trắng,
chị cũng phải đóng thuế xuất khẩu.
Sợ trễ chuyến bay, tôi thành thật đề nghị:
-Tôi còn chẳn .75 xu nếu chú
muốn lấy, còn không chịu, vui lòng trả tiền lại vì tôi phải đi rồi…
Vừa nói, tôi vừa nhẹ nhàng đặt vội tấm
hóa đơn có in rõ số tiền tôi trả ở gian hàng bách hóa, đậm chữ Export Center màu
đỏ chói chang nhức mắt, như màu “độc lập tự do” lúc tôi viết tờ đơn; có luôn
hàng chữ nhỏ “không cần đóng thuế“ bên góc trái mảnh giấy úa vàng như lá chết
tàn Thu.
Loa phóng thanh lại vang rền, lần này gọi
thẳng tên tôi:
-Mời bà…
Thấy không sơ múi được gì, lại nghe loa
gọi dồn dập, tên trưởng nhóm đành vội nói:
-Thôi chị đi đi. Lần đầu
chúng tôi tha. Lần sau nên biết điều một chút nhé.
Tôi vui vẻ trả lời trước lúc… lưu luyến
chia tay:
-Cảm
ơn các chú tha tội. Nếu có lần sau, tôi sẽ ráng giữ lại chút ít tiền lẻ, đủ để
mua vui từ các chú. Tôi xin hứa chắc mà.
Mười hai ngày ở cuộc “trở lại quê nhà” của tôi
đầy bất trắc, bất hạnh và bất như ý. “Con nhỏ” chậm ăn chậm nói, bị cuốn vào
môi trường phải dạn ăn dạn nói để sinh tồn. Lòng tôi đầy tiếc nuối những ngôn từ
lịch sự, ngọt ngào êm ái nên dùng cẩn trọng mỗi lần trao đổi với tha nhân. Mẹ
ơi, Thầy Cô ơi, con đã bị “gần mực thì đen” rồi… Bấy giờ, một lần nữa, tôi đang
từ từ rời khỏi vòm trời Quê Mẹ. Tình Mẹ thương con đứt từng đoạn ruột bao nhiêu
thì giờ con xa Mẹ, ruột con cũng đoài đoạn rệu rã từng chùm như thế ấy, bởi con
đang dần xa cả hai bà Mẹ dấu yêu cùng một lúc, các Mẹ của con ơi!
Bên ngoài cửa kính phi cơ, mây âm thầm
bay như luân vũ, vô ưu… huyền hoặc bay. Tôi buồn. Trong tôi chất ngất nỗi buồn,
dạt dào hắt hiu ở từng thời điểm. Nhớ lúc muốn chạy đến ngắm ngôi trường
GIA-LONG Xưa rồi bất chợt đổi ý vì thấy thấp thoáng đám nam sinh ở đó. Không biết
tìm ai quen để hỏi về cây mít già bên hông trường, cạnh phòng bà Hiệu Trưởng, vẫn
tươi tốt như xưa hay đã mất gốc luôn rồi?
Còn biết bao nhiêu chuyện buồn bất định,
lẫn khuất trong từng ngõ ngách tâm tư của con người đang trên đường ly xứ. Tôi
bỗng nhớ đến các nhân vật trong tác phẩm của nữ sĩ Quỳnh Dao- Hải Âu Phi Xứ, nhớ
các trang Nhật Ký của cô bé Anne Frank. Tôi cũng hồi tưởng về cuộc đời của các
nhân vật trong Dr. Zhivago, cuốn phim tôi ngồi xem đi xem lại nhiều lần ở Rex.
Thôi nhé cánh chim ly xứ, bay đi bay đi, bay về khung trời Tự Do của mi đi.
Sau khi đổi chuyến bay ở Seoul, tôi chợp
mắt được đôi chút, bình yên được đôi chút. Trái tim tôi mĩm cười thoải mái
trong giấc ngủ liu riu, không làm reo nữa, vì Nó biết, Nó sắp sửa được trở về
nhà.
Xuống phi trường Los Angeles, có hai lối
đi ra. Với chiếc Samsonite nhỏ xíu, tôi thông thả đi vào ngõ hành lý không cần
khám xét. Người nhân viên gát cổng, thoáng nhìn tôi khi ông mở passport:
-You stayed only twelve days in
Vietnam?
-Yes, Sir.
-How come? That’s your
homeland.
-It’s very hard to explain,
Sir. The Commumist Government allowed me to stay only for fifteen days. But
after I had done all the things that I needed to do, I wanted to leave as soon
as possible. Therefore, I only stayed there for twelve days, Sir.
Người nhân viên Hải Quan Mỹ, mập, lùn với
ánh nhìn khá phúc hậu ấy, như một người anh lớn, đã dang rộng đôi cánh tay hộ
pháp, ôm chầm lấy tôi, vỗ nhè nhẹ lên đôi vai gầy yếu, mũn mĩm cười theo lời
nói khe khẽ bên tai:
-Welcome
HOME, Sweetie Pie
Trong một phần ngàn tỷ thời lượng, những
giọt nước mắt tủi thân òa vỡ, cùng với trái tim nhảy múa vũ điệu Tango mượt mà
nhất, lòng thầm cảm ơn mảnh đất đang chấp nhận sự trở về của tôi; cảm ơn nhiều
lần nhiều “vòng tay giữ trọn ân tình” của người nhân viên Hợp-Chủng-Quốc. Trên
freeway dài ngót 30 miles, từ phi trường LAX Tom Bradley của thành phố Thiên-Thần
về lại ngôi nhà ấm áp, những giọt nước mắt cứ tự nhiên tuôn tràn tưới lên con
đường hạnh phúc, sướt mướt thấm đẫm cả hai bên bờ biển Thái Bình của quê hương,
cùng tên nhưng trót lỡ đã không cùng Chính Kiến.
Trái khôn khép nép bên nguồn
cội
Nhánh lá vàng ươm nỗi nhọc
nhằn
Nhựa bỗng cạn khô, buồn mất
nước
Đất nằm trăn trở tới trăm
năm.
Nhất-Phương
No comments:
Post a Comment