Để thấy thương
vợ nhà hơn.
Tác
giả: Tràm Cà Mau
Rất nhiều bà vợ hiểu biết, hiền lành, dễ thương, ngày đêm vun xới
cho hạnh phúc gia đình. Bởi hạnh phúc gia đình, có thể nói là thứ quý báu nhất
trên đời, khó có gì sánh bằng. Sống trên thế gian, ai ai cũng mưu cầu hạnh
phúc, chỉ có người mất trí khôn mới không biết quý không khí êm ấm của gia
đình. Nếu trong một đất nước, mà nhà nhà đều được hạnh phúc đơm đầy, thì quốc
gia đó, đạt được lý tưởng mơ ước, không cần giàu, mạnh, hay tiếng tăm.
Người ta kiếm cho ra nhiều tiền, không kể nhọc nhằn,
lao tâm khổ trí, cũng chỉ để mưu cầu hạnh phúc. (Họ tưởng tiền bạc có thể mua
được hạnh phúc) Theo đuổi danh vọng, cũng là một thứ đi tìm hạnh phúc cá nhân,
khoan kể đúng hay sai.
Tuy nhiên, có không ít bà vợ đã cố ý hay vô tình phá vở
hạnh phúc êm đềm thường ngày, bằng cách làm khó chồng, đay nghiến, nói lời
độc ác, hành động hoang loạn, bất mãn triền miên và chê bai chồng đủ điều. Các
bà nầy, đã tự đập vở hạnh phúc đang có, và
bỏ phí tháng ngày trời cho. Có thể, đến khi mất đi ông chồng dễ ghét đó, các bà
mới chợt ý thức được hành động đáng trách của họ, và lúc đó tiếc thương thì
cũng đã quá muộn màng.
Ai đã từng ít nhiều đau
khổ vì bị vợ hành, xin đọc các trích đoạn sau đây. Đoạn đầu là bản dịch
chương 1 phần 6 của tập “Đắc Nhân Tâm” do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch, nguyên
tác của Dale Carnegie, sẽ thấy an ủi vô cùng. Vì thế gian đã có những danh nhân
bị vợ hành gấp trăm mình.
Xin để thì giờ đọc, mà
tìm đuợc chút an ủi và hạnh phúc. Nếu đã đọc rồi, cũng nên đọc lại, vẫn thấy
hay vô cùng. Chương 1 phần 6 của cuốn Đắc Nhân Tâm viết như sau:
Chôn sống hạnh phúc gia đình cách nào lẹ nhất?
Năm 1852, Hoàng đế Nã Phá Luân đệ tam say mê Nữ
bá tước Mari Eugénie Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất thế
giới và cưới nàng. Cận thần có người can gián Hoàng đế vì lẽ không được “môn
đăng hộ đối”.
Nhưng Hoàng đế nói: “Có cần chi điều đó”. Cái duyên và vẻ đẹp lộng lẫy của nàng
làm cho Hoàng đế mê ly như gặp tiên. Trong một bài diễn văn, Hoàng đế nói như
thách cả nước Pháp: “Trẫm đã cưới một người đàn bà mà Trẫm yêu và ngưỡng mộ,
như vậy còn hơn là cưới một người mà Trẫm không được biết”.
Hoàng đế và Hoàng hậu có đủ điều kiện để cuộc lương duyên hoàn toàn theo lý
tưởng: Sức mạnh, tiền bạc, quyền thế quang vinh, sắc đẹp, tình yêu. Chưa bao
giờ người ta thấy hạnh phúc thiêng liêng trong gia đình chói lọi rực rỡ như
vậy.
Than ôi! Chẳng bao lâu, lửa thiêng đó chập chờn, lu mờ và tắt hẳn. Nã Phá Luân
đã có thể làm cho nàng Eugénie thành một bà Hoàng hậu được, nhưng không có gì ở
đời này, cả tình thương của ông, cả uy quyền của ông, có thể thay đổi nổi tính
tình của người đàn bà đó.
Bà điên cuồng vì ghen
tuông bị nghi ngờ nó giày vò bà, làm cho đời sống của ông không được mảy may tự
do. Bà không kể gì tới mệnh lệnh của ông nữa, bà sồng sộc xông vào văn phòng
của ông trong khi ông bề bộn việc nước; Trong lúc ông bàn kín việc quốc gia đại
sự, bà cũng vào cho kỳ được mới nghe. Bà nhất định không bao giờ để cho ông ở
một mình hết, luôn luôn sợ ông có ngoại tình.
Thường thường bà chạy lại nhà một bà chị để phàn nàn về chồng, trút hết tâm sự,
khóc la, đe dọa. Có lắm lần bà đạp cửa vô thư viện của ông để chửi ông nữa. Cho
nên, làm chủ mười hai tòa cung điện lộng lẫy mà Nã Phá Luân đệ tam không có lấy
một cái tủ để trốn trong đó cho yên thân được.
Rồi sau xảy ra sao?
Đoạn văn bản này trích
trong cuốn sách thú vị của E. A. Rheinhardt “Nã Phá Luân và Eugénie: Bi hài
kịch của một đế chính” trả lời câu hỏi đó:
“Như vậy, rốt cuộc Nã Phá Luân có ngoại tình thiệt và ông luôn luôn lén lút ra
khỏi cung, đội chiếc nón nỉ kéo sụp xuống che mắt, có độc một người hầu cận
theo sau, để đi tới nơi hẹn hò với một giai nhân... Nếu không phải, như hồi còn
hàn vi, để đi lang thang trong kinh đô, vơ vẩn dạo chơi trong những con đường
mà các vị Hoàng đế chỉ được nghe tả trong sách...”.
Đó, cách cư xử của bà
Eugénie đem tới kết quả như vậy đó. Đành rằng bà vẫn luôn luôn là Hoàng hậu
nước Pháp. Đành rằng bà là người đẹp nhất thế giới. Nhưng khốn nạn thay, cả
chức Hoàng hậu và sắc đẹp đó không đủ cứu vãn tình yêu bị ngạt trong không khí
đầy chất độc, vì những cuộc bất hòa đó.
Phải, Eugénie cũng có thể kêu Trời như Job “Ghét của nào, Trời trao của đó”.
Trời trao ư? Không đâu. Chính bà đã tự đem trút nó lên đầu bà vì cái máu ghen
và những lời đay nghiến của bà. Đành hanh, nhiếc móc, giày vò, thứ khí giới tai
hại nhất mà Diêm Vương đặt ra để tiêu diệt tình yêu. Khí giới đó chắc chắn có
hiệu quả hơn hết cũng như nọc rắn hổ vậy, không ai thoát khỏi chết.
Bá tước phu nhân Tolstoi tìm thấy chân lý đó - nhưng trễ quá. Lúc lâm chung, bà
thú với con gái bà rằng: “Chính má đã làm cho ba các con chết”. Con gái bà
không biết trả lời ra sao, sa lệ. Vì biết rằng quả đúng như vậy: Ông Tolstoi
chết vì bà đầu độc đời ông bằng những lời đay nghiến cay chua không ngớt, những
cuộc xung khắc bất tận.
Mà cặp vợ chồng đó có đủ
những điều kiện của hạnh phúc. Tolstoi là một văn sĩ nổi danh nhất hoàn cầu.
Ngoài vinh quang đó ra, ông bà lại giàu sang, có địa vị quan trọng trong xã hội
và có nhiều con. Không bao giờ một cuộc hôn nhân trổ bông dưới nền trời tươi
sáng hơn nữa. Mới đầu, hạnh phúc của ông bà đầy đủ quá, hoàn toàn quá, đến nỗi
có khi cả hai đều quỳ gối, cầu xin Thượng đế gìn giữ họ trong cảnh thần tiên
đó.
Rồi thì một sự lạ lùng
xảy ra. Lần lần Tolstoi biến đổi tính nết, thành một người khác hẳn. Ông xấu hổ
về những danh tác ông đã viết, và bắt đầu từ lúc đó ông miệt mài viết những bài
thuyết giáo về hòa bình và kêu gọi diệt trừ chiến tranh và khổ cực cho nhân
loại.
Ông thú rằng hồi thiếu
thời, ông đã mắc những tội lỗi không thể tưởng tượng được, cả tội giết người nữa
và để chuộc tội, ông nhất định theo đúng giáo lý Cơ Đốc. Ông phân phát hết thảy
những của cải của ông và thề sống trong cảnh nghèo. Ông làm lụng ngoài đồng,
chặt cây, phơi cỏ, đóng lấy giày, quét lấy phòng, ăn trong đĩa bằng gỗ, ráng
yêu cả những kẻ thù ông.
Đời của ông là một bi kịch, mà như vậy chỉ do hôn nhân của ông. Bà ưa xa hoa,
ông thì ghét. Bà ham danh vọng, thích được tôn trọng, thích giao du, mà ông lại
không màng gì tới những thú tầm phào đó. Bà đòi có nhiều vàng, sống một cuộc
đời sang trọng, còn ông thì cho giàu có là một tội lỗi.
Trong nhiều năm, bà đay nghiến ông, thịnh nộ với ông, mạt sát ông, vì ông in
sách cho không, không đòi quyền tác giả, mà bà thì không muốn bỏ những món tiền
đó.
Khi ông chống lại thì bà phát cơn động kinh, lăn trên mặt đất, ngậm ở môi một
ve thuốc phiện, thề sẽ tự tử hay dọa sẽ đâm đầu xuống giếng.
Có một chi tiết mà tôi
cho là vô cùng thương tâm trong đời của ông bà. Như tôi đã nói, lúc mới cưới,
cuộc tình duyên đó thiệt đẹp đẽ, vậy mà 48 năm sau, ông Tolstoi đến nỗi hễ
trông thấy mặt bà là chịu không nổi... Có khi, buổi tối, bà già cô đơn đó thèm
khát tình thương, lại quỳ bên ông và xin ông đọc cho nghe những đoạn dịu dàng
cảm động, mà ông viết vô nhật ký để tặng bà, 50 năm trước.
Và khi ông đọc, sống lại những ngày tươi sáng rực rỡ, bây giờ đã tan như mây
khói, cả hai đều rơi lệ. Than ôi! Thực trạng khác xa những mơ mộng thiếu thời
một cách độc địa làm sao!
Sau cùng, năm 82 tuổi,
Tolstoi không chịu nổi sự bất hòa ghê gớm trong gia đình nữa và một buổi tối,
tháng 10 năm 1910, tuyết sa đầy trời ông trốn bà, đi xa, trong đêm tối và lạnh
lẽo, không biết là đi về đâu.
Mười một ngày sau, ông đau phổi mà chết tại một nhà ga. Lời cầu xin cuối cùng
của ông là đừng để ông thấy mặt vợ ông.
Đó, bà Tolstoi phải
chuộc những cơn giận, lời dọa nạt, lời trách móc với cái giá đó. Có lẽ
độc giả tự nhủ rằng có nhiều chỗ bà phàn nàn cũng đáng. Phải. Nhưng vấn đề
không phải ở đó. Vấn đề ở chỗ này: Bà phàn nàn có ích gì cho bà không? Hay là,
trái lại, chỉ làm cho tình thế đã tệ hại còn tệ hại thêm nhiều?
Khi trễ quá rồi, bà mới tự thú: “Tôi tin chắc rằng hồi đó tôi điên”.
Bi kịch thảm thương nhất trong đời Lincoln cũng là cuộc hôn nhân của ông. Tôi
nói rõ: Không phải là vụ ám sát ông mà là cuộc hôn nhân của ông. Khi tên Booth
hạ sát ông bằng một viên đạn, ông không hay rằng người ta mới bắn ông, nhưng
trong 23 năm trời, gần như mỗi ngày, ông được nếm “những trái cây chua chát của
một duyên nợ đau khổ” như lời ông Herdon, người bạn ông đã nói. Thiệt vậy,
trong gần một phần tư thế kỷ, bà Lincoln rút dần mạch sống của đời ông bằng
cách khích bác, gây lộn, giày vò, đay nghiến ông.
Bà luôn luôn day dứt, đay nghiến rằng ông chẳng được vẻ gì: Nào là lưng thì gù,
chân đi thì kéo lê như thằng mọi, dáng điệu cứng như que củi, gai mắt lạ lùng.
Bà nhại dáng đi của ông rồi nghiến răng hỏi ông sao không bắt chước dáng đi
lịch sự của bà? Bà oán cả hai tai ông, vừa rộng vừa vểnh ra như tai voi. Bà chê
ông mũi lệch, bà chê môi dưới ông trề ra, bà chê ông có vẻ ốm đói; Tay chân lớn
quá mà đầu thì nhỏ quá! Hai ông bà trái ngược nhau về đủ mọi phương diện: Giáo
dục, tính tình, thị hiếu. Chọi nhau hoài...
Một sử gia thông
thạo nhất về đời sống Tổng thống Lincoln có viết: “Giọng nói the thé của bà
Lincoln, ở ngoài đường cũng nghe thấy, và những cơn thịnh nộ của bà thì điếc
tai hàng xóm. Mà không phải khi bà giận dữ, chỉ la hét mà thôi đâu, bà còn làm
hung nữa, có nhiều chứng cớ không chối cãi được”.
Chẳng hạn, sau khi cưới, ông bà lại trọ nhà bà Farly, vợ góa một lương y, có
nấu cơm tháng.
Một hôm lúc điểm tâm,
ông Lincoln có một cử chỉ hoặc thốt một lời làm cho bà nổi giận. Không ai nhớ
ông đã làm gì, nhưng người ta thấy bà Lincoln trong lúc cơn điên lên đến cực
điểm, liệng một tách cà phê nóng vào mặt chồng, ngay lúc đông đủ các khách trọ
khác.
Lincoln xấu hổ lắm, làm thinh ngồi trơ trên ghế trong khi bà chủ trọ đem chiếc
khăn mặt ướt lại chùi má và quần áo ông.
Lòng ghen của bà Lincoln vô lý dữ tợn, và không thể tưởng tượng được, đến nỗi
chỉ cần đọc những đoạn tả những cơn giận dữ, bi thảm làm cho ông mất mặt trước
công chúng, phải, chỉ cần đọc những đoạn đó, 75 năm sau, cũng còn thấy kinh tởm
rùng mình. Sau cùng, bà hóa điên. Người ta cho rằng tánh hạnh bà như vậy; Bởi
vì bà mắc bệnh thần kinh. Không thể có lời nào nhân từ hơn để xét bà nữa.
Bây giờ ta hãy tự hỏi: Những cơn thịnh nộ đó, những lời đay nghiến đó, cái lối
bù lu bù loa đó có cải thiện ông Lincoln chút nào không?
Một ngàn lần không. Nó chỉ giết hết tình cảm của ông đối với bà, nó làm cho ông
suốt đời hối hận rằng đã cưới bà và chỉ muốn có mỗi một hành vi là đi khỏi nhà
cho khuất mắt.
Tại tỉnh Springfield, là
nơi gia đình Lincoln ở, có 11 ông luật sư. Vì đông quá, không thể kiếm ăn trong
tỉnh đó được, họ phải đi ngựa từ tỉnh lỵ này qua tỉnh lỵ khác, theo sau ông tòa
David Davis để cãi trong những lúc ông này xử án khắp trong miền. Nhưng trong
khi bạn đồng nghiệp của ông Lincoln cứ cuối tuần lại trở về gia đình thì ông
Lincoln không muốn về, vì rất kinh tởm sự ở gần bà vợ. Và trong ba tháng hè và
ba tháng thu, ông ở xa biệt, không lai vãng gần miền Springfield.
Như vậy trong nhiều năm.
Đời sống trong những quán trọ nhà quê đó không vui thú, cũng không đủ tiện
nghi; Nhưng sống như vậy, ông còn thích hơn là về nhà để thấy bà Lincoln với
những cơn tam bành, lục tặc của bà ấy.
Hành vi của bà Lincoln, Hoàng hậu Eugénie và Bá tước phu nhân Tolstoi có những
kết quả như vậy. Chỉ mang lại bất hạnh cho gia đình và diệt hết nguồn ân ái mà
mấy bà quý hóa nhất.
Sau khi bàn cãi trong 11
năm ở “Tòa chuyên xử các vụ lôi thôi trong gia đình ở Nữu Ước” và nghiên cứu cả
ngàn vụ chồng bỏ nhà ra đi, bà luật sư Bessie Hamburger tuyên bố rằng đàn ông
phải trốn vợ vì họ chán nghe vợ rầy rà, gây gổ. Như một văn sĩ đã nói: “Đàn bà
đào huyệt chôn hạnh phúc gia đình bằng nanh vuốt của họ”.
Vậy, thưa quý bà, nếu
quý bà muốn giữ sự vui vẻ hòa nhã trong gia đình, xin quý bà theo lời khuyên
dưới đây: Đừng day dứt đay nghiến chồng!
Không phải chỉ các danh nhân mới khổ vì vợ. Những người bình thường, cũng gặp
hoàn cảnh ngang trái, như hai nhân vật trong tập truyện ngắn nhan đề “Hương Tóc
Cố Nhân” của Tràm Cà Mau, trích từ trang 59:
Nhiệm sở đầu tiên trong đời làm việc của tôi là một cơ sở quốc doanh, một khu
kỹ nghệ, tiền vốn do các quốc gia Liên Âu viện trợ phát triển công nghiệp. Ông
tổng giám đốc của tôi là một người Việt có quốc tịch Pháp. Trong sở, ông chỉ
nói bằng tiếng Tây, giọng oang oang, oai phong lắm. Lời ông nói, mới nghe thì
rất chi là thực dân phong kiến. Câu nói nào của ông cũng có kèm theo những lời
vô cùng dao búa chết chóc: “Ông chém mầy. Ông giết mầy. Ông bắn mầy”. Nghe lối
nói của ông, chúng tôi hết hồn, run. Vì đa số chúng tôi thường được giáo dục
trong lời ăn tiếng nói, tránh những ngôn từ không đẹp, không dám dùng lời thô
lổ sống sượng, làm mất lòng người nghe. Những vị giám đốc dưới quyền, sợ ông
tổng giám đốc như sợ cọp. Cả ông thầy cũ của chúng tôi đang là nhân viên trong
sở, cũng lấm la lấm lét trước mặt ông nầy. Thì chúng tôi là cái “thá” gì, có
gan bằng trời hay sao mà không sợ? Tôi hỏi một anh lớn tuổi hơn trong sở, tại
sao ông tổng giám đốc có thái độ hung hăng dữ dằn như thế. Anh bảo tôi đừng
thèm để ý lời ông nói, miệng ông phun toàn lời độc địa, nhưng tâm ông không
xấu. Có lẽ vì ông là kỹ sư đào mỏ, tốt nghiệp ở Pháp, ra làm việc với phu
mỏ bên Tây, tiếp xúc toàn cả dân “trời ơi đất hỡi” bên đó, cho nên ăn nói không
được thanh nhả, quen thói mạnh miệng. Từ bé cho đến tuổi đó, tôi chưa gặp một
người nào có vẻ hung hăng như ông nầy. Thế mà, trước mặt bà vợ đầm, ông xìu như
cái mền rách. Ấp a ấp úng, nói cà lăm, bao nhiêu hùng khí trong ông đều tiêu
tan cả. Một lần nọ, trong buổi họp, ông đang ba hoa nói trời, nói đất, đang doạ
dẫm chuyện nầy chuyện kia, thì vị bí thư của ông hé cửa phòng họp chạy vào,
thầm thì với ông câu gì đó. Mặt ông chợt xám ngắt như chì, ông run lên thấy rõ,
lính quýnh chưa kịp hành động gì, thì nghe tiếng la oang oang bên ngoài bằng
tiếng Tây, giọng đầm:
“Thằng chó đẻ, thằng mọi
rợ, thằng khốn nạn, hèn mạt, đê tiện, vô liêm sỉ, bà xé xác mầy ra. Mầy
trốn ở đâu bà cũng lôi đầu mày ra, bà trị cho chừa.”
Tiếng rầm rầm bên ngoài phòng. Ông tổng giám đốc của tôi nói giọng run run khẩn
cấp:
“Chốt cửa lại. Chốt cửa lại”
Một anh kỹ sư chạy mau về phía cửa, kê nghiêng cái ghế vào nắm tay cầm, gia cố
cho chắc thêm. Bên ngoài , bà đầm đang hành hạ cánh cửa, đấm đá, dộng, đập.
Tiếng ầm ầm như bọn cướp phá nhà. Bên trong, ông tổng giám đốc của tôi mặt xanh
như tàu lá, sợ đến mồ hôi chảy thành giòng. Bây giờ thì tất cả cái vẻ oai
phong hống hách thường ngày của ông đều tan biến đâu cả. Ông lắp bắp :
“Kêu cảnh sát, kêu cảnh sát, kêu.. kêu...”
Có lẽ ông giả vờ nói cho đỡ ngượng, bớt xấu hổ, chứ ai mà cả gan dám kêu cảnh
sát vào bắt vợ ông. Chúng tôi án binh bất động, ngồi thừ ra, mặt anh nào cũng
sượng sần, không dám cười, nói gì cả. Bên ngoài, tiếng thoá mạ, xỉ vả của bà
đầm nghe léo nhéo, ồn ào liên tục. Đấm đá cánh cửa một hồi lâu không hiệu quả,
mà bên trong im khe. Bà đầm rùng rùng chạy xuống lầu, ra sân đậu xe, khiêng một
tảng đá lớn, bà dộng mạnh vào tấm kiếng trước của chiếc công xa sang trọng láng
bóng mà ông thường sử dụng. Ầm một tiếng, tấm kiếng vở tan tành thành từng mãnh
vụn nhỏ như hạt bắp khô. Tảng đá chui tọt vào trong lòng xe. Anh tài xế
đứng gần đó, ôm đầu la, tiếng thất thanh : “Ối trời ơi.”. Bà đầm đứng chống
nạnh kêu gào, chửi bới, đá ầm ầm vào xe thêm một hồi lâu nữa, mới hậm hực lửng
thửng bỏ đi. Ông tổng giám đốc tuyên bố buổi họp tạm chấm dứt. Có lẽ, ông không
còn lòng dạ nào mà tiếp tục phiên họp.
Sau nầy, tôi nghe anh tài xế riêng của ông kể thêm rằng, khi bà con của ông
tổng giám đốc có kỵ giỗ, đem mâm thức ăn đến biếu. Bà đầm nầy đứng ngay cửa,
cầm cả mâm thức ăn liệng ra sân. Choang một tiếng, cả mâm đồng và chén dĩa bể
loảng xoảng. Bà đầm gào lên rằng: “ Không có bà con chi với ai cả.
Không ai ăn các thứ dơ bẩn nầy.”
Ông tổng giám đốc đầy uy quyền, hống hách của tôi, tưởng đâu trên đầu không còn
có ai, thế mà cũng chịu thua bà vợ, thua đậm, thua hoàn toàn, thua không
cách gì gỡ được. Lâu lâu, bà vào sở, làm náo loạn vài ba tiếng rồi ra về. Bị vợ
đì đến thế, nhưng ông không hổ thẹn với ai cả. Bởi ông sợ vợ ông, chứ có sợ vợ
người khác đâu . Cái hung hăng của ông đối với cấp dưới quyền vẫn không giảm đi
chút nào.
Ông Tư là người chỉ huy trực tiếp của tôi, có dáng vẻ hiền lành, đứng đắn, ăn
nói nhỏ nhẹ. Mỗi sáng bà vợ đi theo vào sở, ngồi trước mặt ông để canh chừng.
Mỗi khi điện thoại reo, bà cầm lên nghe trước, hỏi xem ai bên kia dây, rồi mới
trao cho ông. Những khi nghe giọng đàn bà bên kia đường dây, thì bà ghé tai sát
vào ống nghe, để biết hai người đang nói chuyện gì. Bà ngồi từ sáng sớm đến
chiều tối cùng đi, cùng về với ông. Đứa con còn nhỏ bà giao cho vú em săn sóc.
Ông như một tù nhân bị giam lỏng. Mỗi khi có chuyện cần, ông đi qua phòng khác,
lầu khác, thì bà lẽo đẽo đi theo như một cái đuôi. Bà đứng đợi ông nói chuyện
xong, rồi dẫn độ ông về lại văn phòng. Những lần họp chung trong phòng ông tổng
giám đốc, bà đứng canh trước cửa. Thế cũng chưa đủ. Lâu lâu bà dùng điện
thoại của phòng khác, kêu vào, và xin được nói chuyện với ông Tư. Nhiều khi tôi
nghe ông Tư càu nhàu trên điện thoại: “ Bà làm phiền hoài. Người ta đang họp.
Khổ quá, như thế nầy thì làm ăn chi được?” Có lẽ ông tổng giám đốc cũng nghe,
nghe rõ, và thông cảm cho ông Tư hơn ai cả, vì cả hai ông đều chung hội chung
thuyền, thuộc loại râu quặp vào bên trong, khổ vì vợ.
Một lần tôi hỏi bà Tư:
“Bác đứng canh bên ngoài cửa, ai vào ra bác đều biết. Có phải họp lâu, bác nhớ
bác trai quá, nên kêu điện thoại để nghe tiếng cho đỡ nhớ phải không?”
Bà xí một tiếng dài, nói mà hai hàm răng nghiến lại:
“Nhớ cái khỉ. Tên già dịch đó, nhớ làm chi cho bận tâm. Tôi kêu điện thoại, vì
sợ lão tụt ống máng xuống, trốn đi làm chuyện bất chính.”
Tôi phì cười nói:
“Ở trên lầu ba cao thế nầy, ai mà đủ can đảm tuột ống máng xuống. Té một cái là
vỡ đầu chết ngắt. Mà cả sở đông đảo vào ra, thể diện đâu mà ông giám đốc Tư lại
tụt ống máng giữa ban ngày ban mặt? Giả dụ như bác Tư thành công trong việc
tuột ống máng đi nữa, làm sao mà leo trở lại được. Có là siêu nhân mang cánh
bay chăng. Giả như ông ta xuống được, về lại được, thì thời gian cấp bách đó,
đâu có làm được cái trò khỉ gì mà bác lo?”
“Tôi vẫn cứ lo như thường. Trên đời nầy, chuyện gì vô lý nhất, cũng vẫn có thể
xẩy ra. Muốn là được. Anh có nghe câu nói đó chăng?”
Tôi thấy tội nghiệp cho bà, và tội cho cả ông Tư rất hiền lành. Tôi nắm tay bà,
thân mật nói đùa:
“Tôi cũng rất thù ghét cái bọn đàn ông trăng hoa, gạt vợ dối con. Tôi đứng về
phe bác. Tôi sẽ canh ông Tư cho bác. Khi nào có họp, mà ông Tư lẻn đến cửa sổ,
có vẻ muốn tuột máng xối xuống lầu, thì tôi sẽ chạy ra hô hoán, thông báo cho bác
ngay. Bác yên chí lớn.”
“Thật không? Anh không sợ ‘thằng chả’ trù ếm sao?”
“Sợ cái quái gì? Không làm sở nầy, thì tôi đi làm sở khác. Việc chi sợ ai. Tôi
chỉ sợ...chỉ sợ ...”
Tôi định nói chỉ sợ dàn bà con gái mà thôi, nhưng kịp giữ miệng không nói ra.
Bà mừng rỡ, mắt sáng lên và nói:
“Thật nghe! Anh đứng về phe tôi. Nếu thật, thì anh thề độc đi”
“Tôi sợ chi mà không thề độc?”
“Anh tử tế quá. Tôi sẽ giới thiệu cô em gái út của tôi cho anh. Đẹp, giỏi không
ai bằng.”
Nghe bà đòi giới thiệu em gái, mà tôi sợ tái mặt, lạnh cả người.
Mấy lần, tôi thấy ông Tư đi làm, mà không có bà đi theo. Chưa kịp hỏi thăm xã
giao rằng bà vợ của ông có được mạnh khoẻ không, thì nghe tiếng chân bà chạy
xồng xộc bên ngoài, phóng vào phòng, áo quần xốc xếch, mặt mày hớt hải, mắt
nhìn lơ láo. Bà hỏi anh thư ký riêng của ông Tư:
“Nãy giờ ông ấy có đi đâu không?”
"Thưa bà không."
“Có thật không? Hay là anh nói dối.”
Bà bước mau qua phòng tôi ngồi, hỏi tôi có chắc ông Tư không đi đâu từ sáng đến
giờ. Tôi xác nhận, và hỏi bà:
“Sáng nay bác ngủ trể hay sao mà không đi chung với bác trai?”
Bà ghé sát, tai thì thầm:
“Tôi vờ nói mệt, sáng nay không đi theo được. Khi ổng vừa lái xe ra đi, tôi
đang mang đồ ngủ, vội vã kêu taxi bảo rượt theo đến đây. Thấy xe của giả đậu
trong sân, chắc chắn là không đi đâu khác, tôi chạy gấp về, thay mau áo quần,
và kêu xe đến ngay đây. Tôi sợ trong thời gian đó, giả trốn đi đâu khác.”
Một lần, anh thư ký riêng bị ông Tư la rầy, anh giận, chờ dịp trả thù.
Lần đó, bà Tư cũng giả mệt, đến sở sau. Bà cũng hớt hải hỏi anh thư ký. Anh bảo
rằng, ông có đi đâu đó một chốc. Quả thật ông có qua lầu khác bàn chuyện sở với
đồng nghiệp. Thế là bà Tư nổi cơn tam bành lên, kêu gào, khóc lóc, la hét, chửi
ông Tư bằng những lời tục tỉu. Từ chuyện nhỏ, xé thành lớn.
Không biết ông Tư nỗi đoá, doạ dẫm bà thế nào, mà bà chạy ra đường khóc lóc, la
hét. Bà nạy đá, cục lớn bằng nắm tay, pháo kích vào sở ào ào. Mấy ông lao công
phải chạy ra ngăn cản, và doạ bà. Bà không sợ. Bà thét to từ ngoài vào sở rằng,
ông Tư mang bằng kỹ sư giả từ Pháp về, dối gạt chính quyền. Bà yêu cầu bỏ tù
ông Tư, vì ông có liên hệ đến bọn buôn hàng quốc cấm. Bà thoá mạ ông chồng đủ
các thứ ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, bình dân nhất. Bao nhiêu hư hại do bà pháo
kích, ông Tư phải trả đủ, trừ vào lương.
Ông Tư giận, sa thải anh thư ký riêng. Rồi ông bà cũng làm hoà nhau. Nhiều hôm
tôi thấy bà mệt mỏi, ngủ gật, mặt mày phờ phạc. Tôi hỏi xã giao:
“Bác có vẻ mệt đấy. Về nhà ngủ một giấc cho sướng. Để tôi canh ông Tư cho.”
“Không được đâu. Cả đêm tôi không dám ngủ say, sợ giả lén dậy đi đâu. Phải nắm
chặt tay giả cho chắc.”
“Tội nghiệp bác. Chắc vì thương bác trai quá, nên ghen và khổ như
vậy.”
Bà Tư nghiến răng nói như gào:
“Thương! Thương cái xương không còn. Tôi ghét cay ghét đắng, hận thù thằng chả
đến tận tim gan. Kiếp trước tôi mang nợ thằng chả, nên kiếp nầy khổ như thế
đấy.”
“Bác trai có làm điều gì bậy bạ, tổn thương đến tình nghĩa vợ chồng không?”
“Phải chờ cho đến khi làm việc bậy bạ sao?”
Tôi nói đùa:
“Bác muốn ngủ yên mỗi đêm, thì cứ mua một sợi xích, khoá chân bác trai vào chân
giường, cất kỹ chìa khoá. Thế là bác tha hồ mà ngáy.”
Bà Tư cười. Mấy hôm sau, ông Tư vào sở la lối om sòm, xổ giọng mầy tao với tôi.
Tôi không ngờ bà Tư làm thật, muốn xích ông Tư vào giường như xích nô lệ. Ông
không chịu, và hai vợ chồng gây gổ nhau. Tôi biết lỗi. Xin lỗi ông Tư nhiều lần
ông mới tạm nguôi.
Tôi tưởng bà Tư nguyên là thôn nữ, thất học ngu dốt nên ghen tuông bậy bạ. Ghen
tuông một cách vô lý, dốt nát. Nhưng một lần có phái đoàn viện trợ đa quốc gia,
tới thăm khu kỹ nghệ, để xem viện trợ của họ có được dùng hợp lý hay không. Gồm
đại diện của Pháp, Anh, Đức, Ý và Tây Ban Nha. Trong buổi tiếp tân, bà Tư nói
tiếng Đức, tiếng Ý, và tiếng Anh theo giọng Luân Đôn, nói rôm rốp như nói tiếng
mẹ đẻ. Bà còn kể cả chuyện khôi hài, làm các ông cười vui nhộn. Sau đó, tôi mới
biết bà được gởi đi du học bên Pháp từ thuở nhỏ. Chỉ học chuyên về sinh ngữ. Bà
có khiếu, nói song suốt tám ngôn ngữ khác nhau.
Thưa các bạn đọc, bạn có thấy sung sướng khi so sánh vợ nhà
với quý phu nhân nầy hay không? Thì ra, vợ mình cũng còn dễ thương quá, chưa
đến nỗi nào./.
Tràm Cà Mau
No comments:
Post a Comment