24 Giờ Ở Liên Đội Chung Sự - Đoàn Xuân Thu
Ngày 13 Tháng 8 năm 1971, trưa hầm hập
nóng. Cái nóng của Sài Gòn, hừng hực mái tôn, như chảo lửa đun... sôi. Chiến
tranh... khói... khói... lãng đãng mặt người. Trong căn nhà trọ trong hẻm 482
đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, mình nằm chịu trận như một con cá mắc cạn, ngóc
lên mà thở trong cuộc chiến khốc liệt nầy... thì nhận được thơ anh. Bức thơ nhầu
nhĩ, bì thơ là một tờ giấy, người viết chỉ việc viết vào mặt sau, xếp lại, rồi
đề địa chỉ ở mặt trước, có in tem sẵn, dán lại, gởi đi cho nó gọn mà những người
lính từ mặt trận thường dùng để gởi về thân nhân là ba, má, vợ hay người yêu hoặc
mấy đứa em thơ ngây còn ở hậu phương. Thơ anh viết từ ngọn núi Ba Hô nào đó,
khoảng 17 cây số đường chim bay về phía Tây Bắc Quảng Trị, án ngữ đường 9 Nam
Lào. Ai kiểm soát độ cao nầy là kiểm soát đường chuyển quân phía dưới. Và muốn
tấn công, xâm nhập vào Quảng Trị thì phải tìm cách nhổ sạch quân trú phòng ở đỉnh
Ba Hô! Anh nói những ngày ở đây thật là gian khổ và ác nghiệt nhưng gian khổ nhứt
là đi lấy nước vì địch quân rình bắn sẻ. Anh nói: Gió Lào mùa nầy ác nghiệt
cũng không kém mấy thằng Bắc Quân bên kia núi rình bắn lén. Bầu trời trên đầu,
ngày lại ngày, không một đám mây, không mưa... khô khốc! Nước!
Đại đội 1, Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến
của anh nằm trên đỉnh Ba Hô đó. Anh không biết ngày về vì hành quân liên miên
như vậy và đóng chốt ở đây không biết đến bao lâu mới có đơn vị khác đến
thay?
Thơ anh đến, chưa kịp trả lời, thì 21
tây, xác anh đã về tới. Người anh bà con bạn dì, trên chiếc xe Honda, mượn của
thằng bạn học khác, chở mình lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Chạy trong cái
nắng đổ lửa của Sài Gòn mà không nghĩ gì hết. Không tin gì hết. Đầu óc như cứng
lại, khô khốc, đặc quánh lại... như cơn gió Lào vi vút, u u... thổi ngoài kia của
dãy Trường Sơn.
Xe qua tượng Thương Tiếc, quẹo vào con
đường vòng cung. Phía trên đồi là Nghĩa Dũng Đài sừng sững, rồi ngừng lại ở tiền
sảnh của Nhà Quàn Liên Đội Chung Sự Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa! Không có ai
chỉ dẫn. Như linh tính của tình anh em ruột thịt, mình đến ngay chiếc quan tài
hình chữ nhựt màu xanh biển thẫm, đã phủ quốc kỳ. Đầu hòm có một chữ Hán không
hiểu nghĩa là gì? Anh bà con đi chung đang học năm thứ 2 Văn Khoa nói: “Chữ Thượng
nghĩa là trên. Đầu nó nằm đây nè!”
Mặt trước quan tài có đính một tờ giấy.
Trên đó viết vài hàng chữ: Cấp bậc: Thiếu Úy. Họ tên: Đoàn Xuân Hòa. Sanh ngày
14 tháng 9 năm 1949. Đại đội Phó, Đại đội 1, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến. Tử
trận ngày 15 tháng 8 năm 1971 tại Quảng Trị.
Nằm kế bên anh là Chuẩn Úy Lê Định, sanh
năm 1952, sanh quán Huế, cùng chung đơn vị. Phía sau lưng anh là khoảng 20 chiếc
quan tài nữa, chia làm hai hàng, có một vài cái thuộc Sư Đoàn 5, còn bao nhiêu
đều là lính Đại Đội 1 với anh. Sau nầy, nghe kể lại, ngày 15 tháng 8 một trận
đánh khốc liệt đã xảy ra trên đỉnh Ba Hô giữa bộ đội quân chánh quy Bắc Việt và
Đại Đội của anh. Đại Đội bắn hết đạn, bị tràn ngập. Trận đánh xáp lá cà bằng lưỡi
lê đã diễn ra và kết thúc bằng phi cơ phản lực đến ném bom. 24 chiến sĩ Đại Đội
1 Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử tử trận! 24 chiến sĩ ngã xuống và bao nhiêu vành
khăn tang đội lên đầu của thân nhân tử sĩ? Nào ai biết được con số chính xác. Nỗi
đau người lính không còn đau nữa, đã đền xong nợ nước, mà nỗi đau của cha mẹ, vợ
con, anh em của người chiến sĩ thì còn đau mãi đến tận bây giờ!
Quanh quẩn bên chân anh, nhang tàn rồi
thắp nhang khác, nến tàn rồi đốt ngọn nến khác. Một cọng chân nhang, cắm vào đó
một điếu thuốc thơm! Mời luôn những người đồng ngũ của anh mỗi người một điếu!
Hà tiện chi nữa! Hết thuốc, lại dốc hết tiền trong túi ra, xuống câu lạc bộ nhà
quàn mua cho anh hút trước khi xác thân các anh về với đất. Phía sau tiền sảnh
là một căn phòng tối lù mù, chiếu sáng bằng những ngọn đèn tròn, vàng vọt. Rồi
có tiếng trực thăng sơn chữ thập hồng, phầm phập xuống bãi đáp. 2 người lính cứu
thương, quân y, bước ra, chuyển từ trong trực thăng xác 1 người lính thuộc Sư
Đoàn 5, phù hiệu ngôi sao trắng và số 5 màu đỏ máu trên tay áo!
Xác tử sĩ nằm trên băng ca, một tay
thòng xuống, còn đòng đưa theo nhịp đi của 2 người lính đang khiêng... chứng tỏ
anh vừa mới chết, xác hãy còn nóng hổi, chưa lạnh, nên chân tay hãy còn dịu nhỉu.
Quần áo trận của anh vẫn còn ướt sũng và vấy đầy bùn đất! Xác anh được mang vào
phòng và những người lính Quân Nhu thuộc Liên Đội Chung Sự xúm lại làm phần việc
của mình trong im lặng. Trước hết dùng kéo cắt quần áo trận ra để tắm rửa cho tử
sĩ lần cuối. Cái vòi nước xịt vào khuôn mặt giờ hơi tai tái nhưng vẫn còn lật
qua lật lại được theo tia nước. Sau đó là lau khô xác, hớt tóc cho ngắn gọn,
dùng phấn và son tô lại khuôn mặt, môi người tử sĩ để thân nhân nếu có lên nhìn
mặt cho đỡ tủi. Mặc cho người lính vừa ngã xuống một bộ ka ki vàng còn hồ cứng.
Công đoạn cuối cùng là đổi cáng. 2 chiếc thẻ bài đeo trên ngực tử sĩ được rứt
ra. 1 sẽ giao lại cho thân nhân và 1 gắn trên đầu hộc tủ, 1 trong khoảng 300
cái của phòng lạnh, để biết mà mở ra cho thân nhân lên nhận diện 5 giờ chiều
thì Ba, Má dẫn mấy đứa em từ Mỹ Tho lên. Lúc đó thấy Má đi không nổi nữa. Chân
như khuỵu xuống; phải tựa vào vai Ba mà bước! Mấy đứa em còn nhỏ quá nhìn
quanh... ngơ ngác. Thấy Má như vậy, nước mắt mình bây giờ, trưa tới giờ có khóc
được giọt nào đâu, mới trào ra như suối: “Ảnh nằm đây nè! Má!” Má chỉ kêu: “Con
ơi!” Rồi khóc! Nghe thảm làm sao! Ba chỉ im lặng, không nói gì, mặt nhăn nhúm lại!
Đêm xuống, Ba, Má và mấy đứa em vô nhà
khách nghỉ để bình minh, rạng sáng mai đưa xác anh về quê cũ. Mình không ngủ được,
mặc chiếc áo ba-đờ-xuy cho đỡ lạnh. Trên đồi, gió nhiều quá, thổi u...u... Mình
ngồi bó gối, dưới chân anh. Nhang tàn thắp khuya. Thuốc tàn lại đốt. Tiếng con
vạc sành bám trên nóc sảnh lâu lâu lại rơi xuống, đập cánh xè xè, nghe như hơi
người chết từ những chiếc quan tài chập chờn ánh nến, thoát ra.
Nhìn lên đồi cao nơi mộ ông Tướng Đỗ Cao
Trí đèn thủy ngân sáng choang. Nhìn xuống dưới, những hàng bia mộ người chết trận...
lặng im... chìm trong tối. Dọc đường từ nhà quàn vào khu gia binh của Liên Đội
Chung Sự, những mảnh ván quan tài đang đốt dở, cháy leo lét trong gió. Những mảnh
ván quan tài đang cháy dở là do việc thân nhân mướn những người thầu tư nhân rửa
xác tử sĩ lại để còn nhìn mặt lần cuối. Hòm cũ bỏ đi, sau đó xác được đặt vô
cái hòm kẽm mới, hàn chì lại để ngăn mùi tử khí không thoát được ra ngoài, có
người nằm lại nghĩa trang cùng đồng đội, có người được mang về quê an táng.
Ba không muốn khui nắp quan tài anh ra nữa,
không phải sợ tốn tiền. Mà ba sợ ảnh chết như vậy chắc không còn nguyên vẹn
gì... mà nếu Má nhìn thấy thì làm sao chịu cho nổi!
Hai là hy vọng người tử sĩ nằm đó không
phải là xác của con mình. Một hy vọng hão huyền là có thể ngày nào đó anh sẽ về,
gặp lại Ba, gặp lại Má chăng? Rõ ràng hy vọng đó chỉ là ảo vọng; dù vậy Ba vẫn
còn ráng nắm níu, ráng mà bám víu theo?!
Sáng hôm sau,1 bán tiểu đội lính, 6 người,
ông Trung Úy già, Trưởng Hậu Cứ Tiểu Đoàn chỉ huy và chiếc GMC mười bánh đến!
Những người lính kê vai, vác, đưa chiếc quan tài lên xe! Và anh về quê cũ. Tiếng
kèn đồng nghe u uất. Trước đầu xe có tràng hoa cườm và băng vải tím.
Người yêu anh, chị Loan, y tá Bệnh Viện
Lê Hữu Sanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nức nở: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”
lúc di quan! Tình nồng thắm của anh chị như bọt nước đã đành tan theo vận nước
sau đó.
Lại theo xác anh. Xe qua những đường phố
Sài Gòn nhộn nhịp. Người lính tử trận... lẳng lặng đi qua. Có người dừng lại,
chào kính xác người chiến sĩ. Có người dừng lại, ngả nón cúi đầu! Đa số vẫn tiếp
tục đi. Và xe chở xác vẫn đi!
Mang anh về lại quê nhà, Mỹ Tho... nơi,
anh vì nước phải bỏ nó mà đi chỉ mới có 4 năm!
Mình không nghĩ được gì hết! Cuộc chiến
tranh nầy ai gây ra ư? Tại sao vậy? Làm sao cắt nghĩa được tham vọng của 1 lũ
điên? Chỉ biết một điều là 1 thanh niên mới vừa xong trung học là lên đường nhập
ngũ, từ Mỹ Tho ra tận Miền Trung gió Lào khô khốc thổi, rồi ngã xuống ở Đỉnh Ba
Hô nào đó của Quảng Trị để ngăn chận Bắc Quân tràn vào thị xã.
Ngày 25 tháng 8, ôm tấm di ảnh của anh,
thằng em kế, thứ năm, nối bước theo sau, trên hai tay là chiếc gối nhỏ, màu
vàng viền đỏ, màu cờ, có cặp lon trung úy và chiếc bảo quốc huân chương đệ ngũ
đẳng kèm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, đưa anh đến huyệt mộ! Thòng
dây đưa quan tài anh xuống kim tĩnh mà mấy ông thợ hồ vừa mới xây xong, xi măng
chỉ vừa kịp khô nước.
3 loạt tiếng M-16 bắn chỉ thiên, chào
vĩnh biệt người chiến sĩ.
Lại tiếng kêu khóc của người yêu anh ở
giờ hạ huyệt: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”
Đất lấp lại! Và năm ấy mình vừa 20 tuổi.
Ngày chôn anh, ngày 25 tháng 8, là ngày sinh nhựt của mình!
Đoàn Xuân Thu.
No comments:
Post a Comment