TƯỞNG NHỚ CỤ TRẦN VĂN HƯƠNG
Phan Cẩm Anh
Nhiều năm trước, khi còn học ở trung học, một buổi tối sau
khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ «Cây Tùng» để thăm Mai Hương, một người
bạn đồng khóa 1 Nữ Quân Nhân của chị, bấy giờ vừa lập gia đình với đại úy Phan
Hữu Cương, cháu ruột của cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng trò chuyện dưới một
tàng cây trong dinh Phó Tổng Thống. Bất thình lình cụ Hương từ trong bước ra
của đưa mắt nhìn về phía chúng tôi gật đầu rồi ra dấu bảo Mai Hương theo cụ vào
trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương nói với chị tôi:
- Ông cụ vừa mới la
- La chuyện gì?
- Ông cụ nói tại sao tôi
không mời các bạn vào phòng khách nói chuyện đàng hoàng mà lại để bạn đứng dưới
gốc cây. Ông cụ bảo là tiếp bạn như vậy là không phải cách, không trọng bạn.
Đó là lần đầu tôi trông
thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự nhiên nhen
nhúm một cảm tình quý trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ Phó Tổng Thống đôi
lần khi Mai Hương sắp vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân của Mai Hương bận công
vụ nên MH cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa MH vào bịnh viện. Tất
cả những lần lui tới đó, tôi chẳng có dịp nào được giáp mặt cụ Hương.
Thời gian trôi qua, miền
Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng của ngày đầu mất nước,
trong một ngôi biệt thự cũ kỷ nằm khuất nơi ngõ hẻm ngắn trên đường Phan Thanh
Giản, thân nhân của gia đình nầy đã đau đớn đặt ở giữa nhà hai xác người cùng
nhau tìm cái chết, họ vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Đó là đại úy Phan
Hữu Cương và trung úy Trần Mai Hương. Họ đã để lại võn vẹn vài lời trăn trối
xin nhờ lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình, vì không thể sống khi đất nước
đã rơi vào tay kẻ thù…Đôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con thơ dại nhờ ông
bà nội dưỡng nuôi.
Cũng trong ngôi biệt thự
bị bao phủ bởi không khí bi thương ấy, nơi một căn phòng trên lầu, cụ Hương
đóng cửa im lặng, trầm mình trong nỗi đau của một người đã từng trên cương vị
lãnh đạo, giờ đây bi phẩn chứng kiến cảnh quốc gia suy vong, gia đình tang chế.
Nỗi đau khổ của Cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được Cụ hé môi thố lộ.
Nhưng ý định cùng chồng
đi tìm cái chết của Mai Hương đã không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu
của MH tình cờ ghé lại thăm, thấy thân thể của cô mình vẫn còn chút hơi ấm, nên
vội chở MH đi cấp cứu. Sự sống của MH đã được các bác sĩ giành giựt lại từ
đường tơ kẻ tóc, nhờ đó MH đã trở thành một chiếc cầu khiến tôi có cơ hội biết
thêm chút ít về cụ Hương trong những ngày tháng sau nầy của Cụ.
Nhiều lần, MH dẩn tôi về
lại ngôi biệt thự cũ để thăm các con của MH đang sống nương nhờ vào ông bà nội,
tôi đã chứng kiến cảnh sống đạm bạc, nếu không nói là thiếu thốn, túng quẩn của
gia đình cụ Hương. Cụ Hương luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng nhỏ trên
lầu. Căn phòng bài trí sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là sang trọng.
Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại chỉ là hai chiếc ghế bành, một
cái tủ cũ đựng quần áo cũng đã cũ, một chiếc bàn con trên đó cụ đề một
tượng Phật Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận
săn sóc Cụ là người em rể của Cụ, mà tôi gọi theo như MH là dượng. Phía dưới
lầu là những căn nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong khuôn viên của
biệt thự, có lẽ trước kia là những nhà kho, bây giờ trở nên nơi tá túc của các
thân nhân gồm các em và cháu của Cụ, vì phải gặp cảnh khó khăn dưới quê nền
phải tìm về Saigon nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà Tổng Thống Thiệu đã
cấp cho Cụ từ thời trước. Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, Tổng
Thống Thiệu đã ra lịnh chỉnh trang lại, nhưng Cụ đã từ chối xin cứ đề tình
trạng như vậy vì Cụ đã già rồi, không làm gì ích lợi cho quốc gia, nên cụ không
muốn làm tốn hao công quỹ. Do đó, đến khi Cộng Sản vào, ngôi biệt thự trên
chẳng phải là mồi ngon cho các cán bộ của họ tranh nhau chiếm đoạt như số phận
các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường vách của ngôi biệt thự đã có nhiều chỗ
nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ gạch vỡ tung lên, màu vôi đã trải qua nhiều năm tháng
vàng uế không được trùng tu sơn quét.
Hình ảnh Cụ lúc nầy như
một con chim đại bàng sa cơ gẫy cánh mà vẫn cố giương đôi cánh mang thương tích
để bảo bọc đàn chim non. Tôi được kể, cứ mỗi lần người nhà mang cơm lên lầu cho
cụ, thường thì rất đạm bạc, lâu lâu mới có một chút cá thịt để cụ bổ sức, nhưng
cụ luôn hỏi phần cơm của các người khác trong nhà có được ăn giống như cụ hay
không. Mặc dù người nhà trả lời là có để làm cụ an lòng, nhưng cụ thấu hiểu
tình cảnh nghèo túng nên thường giành thức ăn ngon trên mâm để mang trở lại
xuống nhà cho con cháu.
Nhiều lần, nhìn lên sân
thượng, tôi trông thấy Cụ ngồi lặng lẽ trong phòng. Hình ảnh cụ già tóc bạc
trắng, cặp mắt bất động nhìn về khoảng không, làm tôi bàng hoàng ray rứt trên
đường đạp xe trở về nhà.
Một hôm, có lẽ vào dịp
gần Tết, MH trao cho tôi một củ sâm Đài Loan và nói :
- Bà nội sắp nhỏ bảo chị đem củ sâm nầy đi bán. Củ sâm là
của người ta biếu cho ông cụ khi xưa khi ông cụ viếng Đài Loan, ông cụ còn cất
giữ cho đến giờ. Ông nói chắc ông không cần dùng đến nó nên sai bà nội đem bán
lấy tiền đong gạo cho sắp nhỏ.
Củ sâm võn vẹn bằng hai
phần ba bàn tay, được bọc trong mấy lớp giấy dầy bụi bám, có lẽ đã bị quên lãng
trong ngăn tủ nay được lôi ra… Tôi nhìn củ sâm mà nghẹn ngào. Một nhà giáo
thanh bạch, một người lãnh đạo quốc gia thanh liêm, nay cụ có đâu vàng bạc tài
sản để đem bán nuôi thân và nuôi đàn cháu, giúp đỡ người thân đang tá túc trong
nhà, những người đã bị Cộng Sản kết tội vì liên lụy đến các hoạt động chính trị
của cụ.
Độ hơn tuần sau, ông nội của các cháu, tức em rể của cụ
Hương, ghé lại nhà MH và tôi (lúc nầy, tôi và MH ở chung tại một căn nhà nhỏ ở
quận Tân Bình) kể cho chúng tôi nghe là ông vừa làm theo ý của cụ Hương là mang
ra chợ trời bán mấy bộ veste còn tốt của Cụ.
Để an ủi người nhà bớt
đau lòng, cụ bình thản giải thích : « Từ đây cũng đâu có dịp cần để mặc, thì
đem bán đi chớ giữ làm chi». Số tiền bán áo cũng chẳng còn giữ được bao lâu vì
bà Út đã dùng số tiền nầy để đi chợ mua thức ăn cho sắp nhỏ.
Gia đình của cụ Hương đã
chịu chung số phận nghèo khổ bi đát tột cùng, từ tinh thần đến vật chất của mọi
tầng lớp dân chúng miền Nam khi miền Nam bị Cộng Sản cưỡng chiếm.
Có một sự kiện làm tôi
chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến, lòng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương. Trước
khi chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội bịp bợm đầu tiên, cụ Hương
được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cụ. Sau
đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền, khi một cán bộ thay mặt chính
quyền, đọc "chính sách khoan hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với
những "thành phần" như cụ, cụ dõng dạc nói:
- «Tôi xin phép từ chối.
Tôi không nhận cái quyền công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền
Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ
đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân
trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và
nhân viên của chúng tôi đã được nhận».
Ðại diện của chính quyền
CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu
hình. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với
người nhà:
- «Bọn nó cũng chẳng cần
phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi
nhà đâu mà cần phải quản thúc! »
Vào năm 80 tuổi, mỗi lần
theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra
ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức khỏe của cụ sa sút nhiều.
Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:
- Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô
nhà thương khám bịnh hay chữa trị gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi.
Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám
bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không thì Dượng chẳng yên tâm.
Nghe ông Dượng nói tôi
mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu.
Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đòi người nhà phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực từ
chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đã thuộc về tay chính quyền CS.
Mặc dầu có quen biết vài
bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người bạn, vì trong
hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia
đình. Tôi nhận lời Dượng, hứa tìm một bác sĩ của "chế độ mình" để nhờ
khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ
nhận lời ngay. Lần đầu tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn
mặt vì mắt cụ đã mờ. Cụ Hương hỏi nhà tôi:
- Con đến đây thăm bịnh
cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không?
Nhà tôi trả lời:
- Thưa cụ, cháu chỉ làm
bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu không ngại.
Cụ xúc động, ghé người
gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi tiếp:
- Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và
kiến thức hãy còn ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết, cháu sẽ về
đọc sách lại.
Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như
để trấn an.
Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ.
Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không quan tâm
lắm, mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn của
bác sĩ. Ðiều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói
chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám bịnh. Cụ
nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về
tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ đem ra
chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể
cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:
- «Con biết không, chú
có thằng em đến thăm [cụ xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn
hơn cụ vài tuổi] nó đem đến một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng [lúc mới đổi
tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới]. Chú thương nó có tình, nhưng nghĩ
nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không nỡ lấy. Nhưng nếu chú
không nhận thì "sợ nó buồn tội nghiệp", nên chú chỉ nhận có 5 đồng,
còn hộp sữa thì bảo nó đem về cho gia đình» . Người mà cụ kể là "thằng
em" một cách thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ.
Cụ Hương còn tâm sự với
nhà tôi những chuyện lúc cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con
trai (Trần Văn Dõi) theo hoạt động cho Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi nhận ra
bộ mặt thật của Việt Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc
với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy đã ở lại miền Bắc, và phục vụ
trong quân đội CS. Sau khi Sàigòn bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác
sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ.
Cụ Hương cũng có một
người con khác đang sinh sống tại California. Anh có một đứa con bị bịnh
Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm 1975. Ðã bao lần anh muốn bảo
lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:
- «Trước kia đại sứ
Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú đã từ chối. Bây giờ đời nào chú lại xin
chính quyền CS để được đi ».
Những lần đi thăm bịnh
sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vui buồn trong cuộc đời tham
chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ đặc biệt quý mến như
bác sĩ Bạch Ðình Minh. Cụ ngậm ngùi kể:
- « Bác sĩ Minh là một
người mà chú rất quý trọng. Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà
không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một cái, nhưng đeo được
vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân
đội hết lòng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống
Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ
Minh từ chối không nhận viện lẽ ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy
chương ấy cho những người xả thân chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước ».
Một lần khác cụ hỏi nhà tôi:
- Con có biết bác sĩ
Trần Lữ Y không?
Nhà tôi thưa:
- Bác sĩ Trần Lữ Y dạy
con môn Nội Khoa ở trường Y khoa.
Cụ Hương tâm sự:
- Hồi trước bác sĩ Hoa
Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng
Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y bằng
"thằng", vì chú thương nó như con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille,
suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố
kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua
đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng như vậy không?
Nói tới đây, cụ im lặng
hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y
vẫn còn khỏe mạnh ở bên Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng mạch của bác sĩ
Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật
về bác sĩ Trần Lữ Ỵ. Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói gì.
Hai giòng nước mắt từ từ lăn trên má cụ.
Mặc dầu sức khỏe cụ
Hương lúc đó đã sa sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây
gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái
chuông nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí
nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ
giấc của sự kiện đã xảy ra. Cụ không quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ
với nhà tôi rằng:
- Chú nghĩ người làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức.
Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác lập
trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là [xin giấu
tên], trong một buổi họp quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói
những lời vô lễ [xin không ghi lại câu vô lễ nầy]... Vì dân biểu nầy đáng con
chú. Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ
"lễ", không tỏ ra có tư cách của người học thức, chớ không buồn về
lập trường đối lập của họ.
Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm
muộn gì con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành
công, nhưng không bao giờ con bỏ ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm manh áo,
hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe
dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một lý do viển
vông nào. Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không nói gì. Mãi
một lúc sau, cụ thở dài chép miệng:
- «Có lẽ chú làm không
đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn ».
Lúc nhà tôi từ giã cụ ra
về, cụ ôm hôn nhà tôi và nói:
- Chú gặp con muộn quá!
Vào tháng 4 - 1981, tôi
đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm
cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm để người đi bớt vướng
víu. Một tháng sau đó, tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình
do anh chị tôi bảo lãnh. Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan
Thanh Giản, đứng một mình bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa
thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất
bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi lìa khỏi nơi đây. Cụ Hương vẫn là hình ảnh làm
cho lòng tôi se thắt, là một cánh sen nổi trên giòng nước đang giao động của
tâm hồn tôi.
Khi ngồi viết những
giòng nầy, sau một thoáng suy nghĩ, tôi đã cắt bỏ những đoạn sau để khỏi đưa
đến những gì gọi là cuối câu chuyện.
Những phần không được viết
ra, xin độc giả hãy coi đó là một nén hương trầm mà người viết muốn thành kính
đốt trên bàn thờ cụ Trần văn Hương. Một người quốc gia, một nhà nho giàu lòng
yêu nước, sống và chết trên giòng sinh mệnh điêu linh của dân tộc.
No comments:
Post a Comment