Chuyện tình về lính.
Nhà
thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình
yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn ”. Tình bạn
giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có.
Cát Đằng, tên
một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm
mại, quý phái như hoa. Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu
học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên
kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai
Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm
công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật
đẹp của các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín
như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình
thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi
Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ
có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con
Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát
Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là
một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.
Chúng tôi đã có
một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường
bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ về làm
bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió
hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái
Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát
Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho
cháu.”
Tuổi dậy thì
hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái
đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót. Tôi như garde
corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm
theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo
học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự
: “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người
hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu
với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử
như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn
chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình
quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?
Ấy thế mà một
hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện. Đó là một buổi sáng
“đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ
Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có
mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise ,
quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng
sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở
Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những
chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường
khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán
mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc
pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho
sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên
trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp
nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má
nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai
người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo
Cát Đằng “ Mình thấy hình như có Coup de Foudre”. Nàng yên lặng do
dự một chút rồi bảo tôi : -“An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?”.
Tôi ngạc nhiên : - “Tui không thương bạn thì thương ai?” - “Vậy thì chiều
ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà”
Buổi
chiều , tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy.
Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông
Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi
nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ
chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi
sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin
lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng
với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người
góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng
sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng
cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế
vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên
sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào
Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến
Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng
quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để
hai người gặp nhau.
Anh H. hiền,
tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu
nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm , đi thảo luận… để
rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người
trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ
Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu
làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép
mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ
hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn,
chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.
Anh H. trở về
Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao
đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh
CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ.
Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm
1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng
có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung.
Tôi mở lời : “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không, có chi mô”. Lần này,
bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
Con đường đến
giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English
Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi,
đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi : “An
Nhiên đọc đi !”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm
nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn.
A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có
mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của SVSQ
năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình dung
được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là
với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát
Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình
đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”. Điều gì khiến một
người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế ? Cái này
gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết
lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của
Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không , không đựơc.
Hai đứa không
nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi
thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát
Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý
nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho
cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của
bạn.
Vậy là tôi sang
nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra
e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông
đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy
năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích
thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu
tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay
DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để lại tôi ở
lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm
tôi ăn không ngon , ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu
nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm
xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt của
bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
Và chiều thứ
hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không
Việt Nam.
Nhưng quả thật,
chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi
cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi , hôn lên má : - “Cám
ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong tôi
đều tan biến.
Trên chuyến xe
ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện . Thành phố hoa, những con
dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn
tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai
cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng
lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang
và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người
biết…
Thi thoảng
chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương
lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất
, về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những
đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một
hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn
mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
Cuối năm 1972
anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9
Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư
lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động với
chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc
vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri .Cát Đằng có vẻ yên tâm với
sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra
sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.
Rồi cũng đến
lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là
cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt : “Em
cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện
với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
Như muốn làm
Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm
Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói
về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng
bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để
người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng
Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ
“Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi
có người yêu rồi. Anh đừng mất công” .Tội nghiệp anh chàng cứ
đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những
lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi
nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm
tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.
Buổi chiều hai
đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi
nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!”.
Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”.
Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con
chim thấy tội bắt chết !”
***
Huế tháng chín.
Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều
chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp
thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng
nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu
hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H ”. Tôi nguẩy vai “Rồi
sẽ có ”.
Rẽ vào căn nhà
dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng
ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ . Chị Hương ngồi lặng trên ghế,
nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? ”.
Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát
Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở
ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi
tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi
ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An,
vùng Đồng Tháp Mười . Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng
chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn
điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở
Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự
Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa
tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng
cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái
xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào
phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng lắng nghe
tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất
lực!
Nhưng nỗi bất
hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để
xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không
chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết.Thôi còn mong chi
nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến
bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi
không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng
ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.
Phải sau ba
tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát
Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi !”. Cát Đằng òa lên
nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn
lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.
Không hiểu sao
nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình
chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà.
Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ
anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội
cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát
Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”
Những đợt trao
trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu
anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ
báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành
tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay
cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo
nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi
“cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm
nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà
quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn
bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái lon Guigoz tiện cho
người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy
hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách
sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ ,
tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.
Thi thoảng nhờ
em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất
đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền
đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc
cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung quanh.Tôi biết trong đầu
bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình
nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy người đây
nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi
chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với
sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm
tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp
cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu
ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài.
Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
“Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây
mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!
Bốn năm sau, ba
Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ
chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên
đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng.
Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài
người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi
về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được
khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu
của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con
ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà
các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được . Con
chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi” . Bạn tôi gục mặt
vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện
đại?
Tôi khuyên Cát
Đằng : Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu
phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế. Bạn yên
lặng gật đầu.
Mọi chuyện được
thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần
thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.
Tôi đưa Cát
Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H. từ
Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm
vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên
bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi
xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng
còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.
Trước khi xuất
cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE
chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên
trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan trọng
trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn
giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng
ngậm ngùi thương bạn.
Thời gian qua,
Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một
gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi
mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được
sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện
ngày xưa.
Tôi cũng đã có
gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương
con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình…
***
Ngày mai, gia
đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức
thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh
phúc của cả hai người.
Tôi không thể
đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên
nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh
nữa rồi.
Căn nhà vẫn như
xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách
trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ
niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách
mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình
trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên
đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm
cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống.
Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy , gương mặt ấy… Đúng là anh
H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng , ngơ ngẩn.
Vâng, anh
H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của
Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích.
Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y
viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần
kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận
cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của
mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình
bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần
Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm
sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm phục hồi
chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng
mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30
tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương
nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện chăm sóc,
lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới gối. Mẹ già mất, Cát Đằng
đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương
yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ
Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê
nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ!
Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh
nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.
Cầm xấp thư và
tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố
chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh
giành cho cô ấy”. Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay
áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh
trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình trường.
Một cơn gió
lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.
Hương
Thủy
No comments:
Post a Comment