Văn học & Lịch sử
CHUYỆN MÊ GÁI
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu
khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
(Nguyễn Giản Thanh)
Tuổi Xuân, tuổi người
Người ta thường ví một đời
người như bốn mùa xuân hạ thu đông. Vì vậy, mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, mùa của
yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có bao xa!
Đầu đề tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng
có lẽ nào lại không có chuyện mê trai, mê chồng. Có điều lạ, trong lịch sử cũng
như trong văn học, trong đời thường, đàn ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà,
con gái mê chồng, mê trai.
Vậy thì bây giờ, nói cái gì trước, về
phái nam hay phái nữ?
Nếu nói về đàn bà, trước hết xin nhắc đến
câu ca dao:
“Tay
mang khăn gói sang sông,
Mẹ
kêu mặc mẹ theo chồng cứ theo.”
Sự kiện nầy, không hẵn chỉ có một mình
cô gái trong câu ca dao nói trên, mà hầu như gần hết cô nào, bà nào cũng vậy.
Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ mẹ, có khi đi không quay mặt ngó
lui nữa. Thế có phải là ... mê trai???
Người con gái VN khá lãng mạn. Này nhé:
“Thương nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Ở cái xã hội
xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo cho.. trai, huống chi đời bây giờ thì sao?
Trong lịch sử nước ta (VN), người
đầu tiên mê trai là ai?
Là Công chúa Tiên Dung đấy.
Cô là con vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi
tới môt khúc sông, thấy cảnh đẹp và buồn tình lên bãi cát bên sông tắm chơi.
Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước sông trong mát, thế là
công chúa dội ào ào vào mình. Nước làm cát trôi đi, làm lộ ra anh chàng đánh cá
Chữ Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy hoảng hồn, như công chúa
Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai gái gặp nhau đã khó, huống
chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và. Thế rồi Tiên Dung bảo đây là
duyên trời định, bèn chọn Chữ Đồng Tử làm chồng, và dựng nhà ngay ở bờ sông ấy
mà sống với người mới.
Nhà vua gọi, Tiên Dung không chịu về.
Vua cho quân lính đến bắt, chuyện xảy ra lung tung cả lên, để rồi cuối cùng,
hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).
Câu chuyện nầy có vài điều vượt khỏi
luân lý ngày trước. Công chúa Tiên Dung tự ý chọn chồng mà không hỏi ý kiến cha
mẹ, nói chi tới việc xin xỏ phép tắc. Lấy nhau mà chẳng cưới hỏi gì cả, “ba miếng
trầu” cũng không là điều trái phong tục, lễ nghĩa. Cha mẹ gọi không về! Không về,
nếu không phải là mê trai thì là còn cái gì nữa đây???
Trong lịch sử nước ta, đâu phải chỉ có một
mình công chúa Tiên Dung! Mỵ Châu nặng tội hơn nhiều. Cũng vì mê Trọng Thủy, Mỵ
Châu lén lấy nỏ thần đưa cho chồng xem. Anh chàng “tình báo nam nhân kế” bèn
thay cái lẫy nỏ thật móng thần kim qui bằng cái giả, khiến Thục Phán mất nước về
tay Triệu Đà.
Ngày nay, đôi khi chúng ta nghe câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” hay Nguyễn Khuyến hỏi “Ấy hồn Thục Đế chết bao giờ?” không mấy ai nghĩ tới việc Mỵ Nương vô tình giết cha, làm gia đình tan nát, làm nước mất về tay giặc bên chồng hay sao?!
Người ta thường tranh cải việc người đàn
bà đã mê chồng nhưng ít thấy họ thiếu thủy chung. Chuyện Dương Quí Phi chẳng hạn.
Có thể Dương Quí Phi yêu vua Đường Minh Hoàng nhiều lắm chứ, yêu thêm Lý Bạch,
lại yêu luôn cả An Lộc Sơn, nên mới có cái loạn An Lộc Sơn?
Bao Tự có khác chi?
Châu U Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng
hỏa trên núi Cam Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có thủy chung với Châu U Vương đâu?
Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi sau khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp
đổ. Còn như “con Điêu Thuyền” (tiếng gọi của mấy bà ưa đọc truyện xưa) thì quá
lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt đưa tình với Lữ Bố, khiến cha con
giết nhau. Có người bênh vực, cho rằng Điêu Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái
nhiệm vụ được giao đấy!
“Quốc sắc Thiên hương”
(Sắc đẹp đàn bà con gái)
Văn chương không thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.
Quốc sắc triêu hàm tửu
Thiên hương dạ nhiễm y
Có nghĩa là “Sắc nước sáng say rượu.
Hương trời tối ướt áo”.
Điển tích về người đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Câu
thứ nhứt thứ nhì là “Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba là “nguyệt thẹn, hoa nhường”.
Câu cuối có nghĩa là đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.
Nụ cười của Bao Tự hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực:
Thơ Vương Tăng Nhu vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có
nghĩa là “một nụ cười nghìn lạng vàng cũng mua”.
“Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành”. Cười một cái thì làm “nghiêng
nước”. Cười lần nữa thì “nghiêng thành”, người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước,
nghiêng thành”.
Sắc đẹp làm cho “nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi, có hay ho gì
đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ làm hư thiên hạ. Người xưa họ cũng biết
đấy chứ: “Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng nước nghiêng
thành bởi thói đa tình)
Biết thì biết vậy mà bỏ thì không bỏ được.
Thành ra, “Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy” (Từ xưa người con gái đẹp đều
là mối tai họa).
Cái đẹp của người đàn bà, và cái giỏi của
người đàn ông gần nhau mà kết quả ngược nhau: Kinh thi có câu:
Triết phu thành thành, Triết phụ khuynh
thành.
Nghĩa là: Người đàn ông giỏi dựng nên một
thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì.
&
Hồi còn nhỏ, nhỏ lắm, nhà
tôi ở cạnh bệnh viện Quảng Trị, tôi từng thấy một anh thanh niên bị bệnh điên.
Người ta bảo anh ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì?
Là sa vào đường tình ái, rồi thất tình
nên phát bệnh điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng khi lớn lên, đọc lịch sử, lịch
sử văn học, tôi thấy nhiều người, phần nhiều là đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh
điên nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành quách, đến nỗi mất nước mất nhà thì
không là điên hay sao, hay còn tệ hại hơn cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái có
đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá. Trong lịch sử, người ta còn “nặng” hơn
nhiều.
Số đàn ông mê gái thì đông hơn mà cũng
khủng khiếp hơn. Người ta có thể điểm mặt từng người trong sách sử:
Vua Châu U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.
1)- Châu U Vương
“nước mất nhà tan” vì Bao Tự:
U Vương nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi
mất mạng, mất nước. Dĩ nhiên, Bao Tự là một giai nhân, tuy không được liệt vào
“tứ đại mỹ nhân” của Tầu.
Trong văn học Tầu có câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng giá
ngàn vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất
tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng thành)
thì cũng xứng với nụ cười Bao Tự.
Bao Tự ít khi cười, mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà Chu. Vì
vậy, ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự vui, Bao Tự cười.
Trong Tỳ Bà Hành có câu “Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong,
sàn sạt tiếng đao, Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa
vào bốn dây” là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc thứ nhất, Châu U vương
cho xé lụa từng cây làm cho Bao Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe như tiếng
đàn.
Thứ hai là khói báo tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói Cam Tuyền mờ
mịt thức mây” (Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt
thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên “Phong hỏa đài”.
Phong hỏa đài là một phương tiện thông
tin ngày xưa, để báo cho chư hầu biết kinh đô có giặc. Một hôm U Vương cho đốt
khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về cứu giá. Té ra đó chỉ là việc vua
nhà Châu gạt chư hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò chơi dại dột ấy làm cho chư hầu
tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt khói trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ
nghĩ rằng vua lại gạt, nên không đem quân về, để cho U Vương nhà Chu bị giặc giết
chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ Khuyển Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận,
xong một đời khuynh quốc khuynh thành.
2)- Hán Nguyên Đế giữ được giang
sơn nhà Hán,
nước Tầu được yên nhờ có Chiêu Quân
Chiêu Quân còn gọi là Vương Tường, Vương
Chiêu Quân, một trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng
“chim sa” trong thành ngữ “chim sa cá lặn”, Tầu gọi là “trầm ngư lạc nhạn”.
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lững da trời nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển
tích nầy.
Sách cũ viết rằng khi Chiêu quân sang đất Hồ, ngang qua một sa mạc lớn, lòng buồn vì thân phận, vì xa quê, đang ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân bèn gãy bản đàn tên “Xuất tái khúc”. Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng trời đang bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột gan đứt đoạn, sa xuống đất chết. Đó là điển tích “lạc nhạn”
Hồ Hán Tà là vua xứ Hung Nô dọa đem quân
đánh phá nước Tầu, nếu vua Tầu không gả cho y một công chúa. Thay vì gả công
chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ, dĩ nhiên, cung nữ thì không ai
xấu bao giờ. Thấy vua Hán lấy 5 mà đổi 1, y bằng lòng. Một trong năm cung nữ,
có Vương Tường.
Tuy nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều
oan trái hơn.
Chiêu Quân vốn có sắc đẹp tuyệt hạng, lại
có tài đàn hay hát giỏi. Vì vậy, khi được tuyển vào cung, Chiêu Quân không chịu
đút tiền hối lộ cho tên thợ vẽ Mao Diên Thọ. Mao Diên Thọ trả thù bằng cách khi
vẽ hình Chiêu Quân xong, y thêm một chấm đen dưới con mắt của cô. Sách tướng
nói chấm đen đó là nốt ruồi “thương phu trích lệ” (Giọt nước mắt khóc chồng), tức
là tướng sát phu (giết chồng).
Khi gọi Chiêu Quân lên để đưa sang xứ
Hung Nô, nhà vua thấy Vương Tường đẹp quá, muốn giữ lại, nhưng ngại triều thần,
đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.
Về cái chết của Chiêu Quân có nhiều giả
thuyết khác nhau:
a)- Đến “Nhạn Môn Quan”, Chiêu
Quân gieo mình xuống sông tự vẫn. Khi đi qua cửa ải cuối cùng nầy,
Chiêu Quân cảm tác nhiều bài thơ hay, hòa cùng tiếng đàn của Chiêu
Quân, trở thành điển tích Hồ Cầm.
Cung
thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
là hai câu thơ nói về tài đàn của Thúy
Kiều (truyện Thúy Kiều)
b)- Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu
cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy
xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
c)- Một thuyết khác cho rằng Chiêu
Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Chiêu quân đã góp phần mang lại hòa
bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung
Nô.
Phải nhờ đến sự hy sinh của một người
đàn bà để vua quan dân chúng Tầu được yên thân, có thể đó là điều không vinh dự
gì cho người Tầu và cho cả lịch sử Tầu.
Người Việt Nam khéo léo phê phán bằng một
bài thơ:
Vương Tường oán triều đình (1)
Vật chi muông cỏ dám lăng
loàn?
Âu hẳn trong triều ít kẻ ngoan? (2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu? (4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan ?
ghi chú:
1)- Vương Chiêu Quân là cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu Quân cho chúa Hung Nô
để đổi lấy quan hệ hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng cuối cùng vì buồn
thương và uất hận nàng đã tự vẫn.
2)- Câu thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các
quan trong triều.
3)- Chỉ Diên Thọ, tên thợ vẽ gian
tham
5)- Thù khấu: Kẻ thù
5)- Vệ, Hoắc: Vệ Thanh,
Hoắc Khứ Bệnh, hai người đánh tan được quân Hung Nô (đời Hán)
Năm 1309, Huyền Trân Công chúa về Chiêm quốc với Chế Mân. Triều thần có
người không thuận. Trong dân chúng có bài thơ nói về việc Chiêu quân cống Hồ để
ám chỉ việc gả công chúa Huyền Trân.
Vua Hán dụ Vương Tường
gả cho chúa Thuyền Vu
Hán
Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường
Há trẫm riêng tây có phụ nường
Bắc quốc tuy rằng ngoài dị vực
Biên đình song cũng một biên cương
Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt
Về đấy sen tàn lổi cỏ hương
Hơn thiệt tôi đừng ai oán nữa
Chờ ngày áo gấm lại hoàn hương.
Việc ví von như thế nầy là khiên cưỡng. Hành động của Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn hành động của Vuơng Tường nhiều!
Quang Dũng có bài thơ chê vua Hán như
sau:
Tuyết lạnh che mờ trời Hán
Quốc
Tì bà lanh lảnh buốt cung
Thương
Tang tình năm ngón sầu dâng
lệ
Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ
xang
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán
Vương ơi!
Chiêu Quân che khép mền
chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh
rồi
Ngó lại xanh xanh triều Hán
Đế
Từng hàng châu lệ thấm chiên
nhung
Quân vương chắc cũng say và
khóc
Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn
ngùng
Hồ xang hồ xang xự hồ xang
Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng
hàng
Lã chã trời Phiên mưa tuyết
xuống
Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
Tản Đà có bài văn tế
Nguyễn Thiện
Kế dịch ra Nôm
Cô ơi, cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc, thợ trời
cũng thua
Một đi, từ biệt cung vua
Có về đâu nữa, đất Hồ nghìn
năm!
3)- Trường Hận Ca:
thiên tình hận giữa Đường Minh
Hoàng và Dương Quí Phi
Khi xưa ta là Đường Minh
Hoàng
Ta mơ nàng làm Dương Quí Phi
(Diễm Trang - Vũ Hân)
Dương Quí Phi (719- 756, sau CN) là cung phi của vua Đường Minh Hoàng, một trong “tứ
đại mỹ nhân”, sắc đẹp khiến hoa héo vì hổ thẹn (tu hoa).
Dương Quý Phi tên thật là Dương Nguyệt
Nhi, sau gọi là Dương Ngọc Hoàn, quê ở Tứ Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc
Hoàn được tuyển vào cung làm vợ Thọ Vương Lý Mão, con vua Đường Minh Hoàng. Lý
Mão còn nhỏ lắm.
Khi ấy, Vũ Huệ phi, rất được Đường Minh
Hoàng sủng ái, mới qua đời. Vua Đường thương nhớ vô cùng.
Cao Lực Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoàn
vào chùa chăm sóc nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau đó, đưa Ngọc Hoán vào chầu Đường
Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoán, bèn say mê, phong làm Quí Phi, gọi là Dương
Quí Phi. Như vậy, có nghĩa là Dương Quí Phi lấy cha chồng.
Dương Quí Phi thường đi tắm suối ở Tây
An. Nay ở đây người ta dựng tượng Dương Quí Phi tắm suối để kỷ niệm (xem hình)
Câu chuyện tình Lý Bạch và Dương
Quí Phi
Lý Bạch là người nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và Dương
Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch chỉ đáng mài mực và cởi giày
cho thiên hạ.
Bấy giờ vua Hung Nô gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô. Triều
thần không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch vào. Lý Bạch đọc thư và giải
thích cho vua nghe. Vua rất tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch
vâng mệnh nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra lệnh Cao Lự Sĩ cởi giày
và Dương Chấp Trung mài mực cho ông ta viết thư.
Dương Quí Phi và Lý Bạch là người cùng
thời. Lý Bạch cũng được Đường Minh Hoàng trọng vì tài, thường vời vào cung cùng
vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc
đẹp Dương Quí Phi, có hai câu đời sau còn nhắc nhở:
Phù
dung như diện, liễu như mi
nghĩa là mặt như hoa phù
dung, mày như lá liễu.
Về sau, Đường Minh Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo quan, chỉ
xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến đâu, uống rượu khỏi trả tiền. Chủ
quán nhận tiền ở quan lại địa phương.
Một đêm, Lý Bạch chơi thuyền trên sông, quá say, thấy trăng ở đáy nước, bèn nhảy
xuống sông, ôm trăng mà chết.
Tôi không tin câu chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương quí Phi có thể quá
gần gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen hay sao?! Vì vậy, khi Đường Minh
Hoàng không ái mộ Lý Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu, cái
đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy xuống sông mà có thể một tên nào
đó, giả dạng theo hầu Lý Bạch, đạp cho ông ta một đạp rớt xuống sông, để Đường
Minh Hoàng thỏa mãn được việc ghen tuông.
Chuyện đã gần hai ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù tôi
“ăn ốc nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!!!
Sắc đẹp Dương Quí Phi
Như đã nói, sắc đẹp của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù dung
như diện, liễu như mi”. Xin nói thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt gọi
là bông cẩn, người Bắc gọi là hoa dâm bụt.
Lý Bạch trong “Thanh Bình Điệu” ca
tụng sắc đẹp của Ngọc Hoàn.
Vân tưởng y thường, hoa tưởng
dung,
Xuân phong phật hạm, lộ hoa
nùng.
Nhược chi quần ngọc sơn đầu
kiến,
Hội hướng Dao đài nguyệt hạ
phùng.
Ngô Tất Tố dịch:
Thoáng bóng mây hoa, nhớ
bóng hồng.
Gió xuân dìu dặt giọt sương
trong
Ví chăng non ngọc không nhìn
thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử
ngóng trông.
Lại trong “Trường Hận Ca”, nói về mối hận
tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi (vua ra lệnh giết cô ta), Bạch Cư Dị
viết về Dương Quí Phi như sau:
Qui lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vị Ương
liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy?
Cũng trong bài thơ, tả tình vua Đường
Minh Hoàng nhớ Dương Quí-Phi có câu:
“Phù-dung như diện liễu như my” nghĩa
là hoa phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.
Tản Đà dịch:
Phù dung đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Nhà thơ Đinh Hùng tán tụng:
...
Thoáng nét sương, nụ cười in khuôn ngọc,
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(Giáp Mặt Phù Dung)
Phù dung, trong tiếng Việt, cũng có nghĩa là “hút thuốc phiện”, có khi gọi là “Ả
Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử của “Ả”.
Khi ở cung, Dương Quí Phi thường nhớ nhà. Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm lúc
hoa đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở phận mình, nước mắt tuôn rơi.
Khi Phi đưa tay sờ vào hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tầu gọi
Dương Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành ngữ là “hoa nhường nguyệt
thẹn”.
Có người không tin câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết đâu Dương
Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ thì gọi là cây trinh nữ.
Dương
Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tì
bà, giỏi về âm nhạc.
Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu
múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn.
Loạn An Lộc Sơn
An Lộc Sơn (ALS), gốc là người “Rợ Đột Quyết” là tướng được Đường Minh Hoàng
yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông với ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc
Sơn thù ghét Dương Quốc Trung, anh của Dương Quí Phi. Ông nầy dựa vào thế em
gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về Trường An, quyết dẹp bỏ gian thần.
Quân của An Lộc Sơn đánh bại quân của triều đình.
Vua Đường Minh Hoàng phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng. Tuy
vậy, quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí
Phi chạy vào đất Thục.
Đến Mã Ngôi (năm 756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc nhà vua
phải giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua vì cho rằng chính sự giam dâm giữa
Dương Quí Phi với An Lộc Sơn gây nên mối loạn nầy.
Vì sức ép của binh lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi, lúc ấy
bà mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.
Sau đó vua quan nhà đường dẹp được loạn An Lộc Sơn, giành lại đất đai cũ.
Dương Quí Phi là giai nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải là
do sự dâm dục mà ra? Vua thì đã già, lại từng hoang dâm vô độ, làm sao “gánh”
Dương Quí Phi đang tuổi hồi xuân.
Sự dâm dục đã tạo nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường Hận Ca”.
Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của bà, nên cũng không ít người làm thơ.
Người xưa đâu thì tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy trường Bồ
Đề Huế thì tôi gặp không ít lần, gặp ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa
Lúa Mới hay ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp. Ông bị tật bẩm
sinh, đi đứng không bình thường. So sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là
khiên cưỡng. Và ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là sau khi Việt Cộng
“giải phóng miền Nam”, ông bị đuổi khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông
cũng “ôm cầm thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối dép râu”. Ông chết trong
cảnh nghèo đói, cô đơn (xem phụ lục)
Ông cũng từng mơ Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:
“Khi xưa ta là Đường
Minh Hoàng
Ta mơ em là Dương Quí Phi.”
Bệnh Giang Mai:
Anh em trai chúng tôi có 4
người, khi đến tuổi thành niên, mẹ tôi thường răn dạy, ngăn ngừa trong việc
quan hệ nam nữ, sợ chúng tôi mắc bệnh phong tình, kỵ nhứt là bệnh giang mai,
gây họa đến mấy đời. Theo mẹ tôi nói, hiện tượng trẻ bị sứt môi là một ví dụ,
do vi trùng giang mai gây ra. Vi trùng nầy tiềm ẩn nhiều thế hệ. Bệnh giang mai
do sự kiện Dương Quí Phi bị hiếp dâm sau khi đã chết mà gây ra. Dù đã chết,
nhưng Dương Quí Phi đẹp quá, làm cho binh lính nhà vua cũng động tình, mượn cớ
trả thù, làm bậy trong lúc giặc giả hoảng loạn. Cũng do việc nầy, bệnh giang
mai là tên đọc trại của Dương Mai, phát xuất từ tên Dương Quí Phi.
Ngày nay, có lẽ y học
chưa xác nhận sự kiện lịch sử nầy, nhưng có lẽ mẹ tôi cũng học được khi làm ở
bệnh viện Quảng Trị, khi còn trẻ mẹ tôi làm việc ở đấy?
4)- Ngô Phù Sai
mất nước vì Tây Thi?
Sự ưu ái của Ngô Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai sánh bằng.
Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:
Dựng “Cô Tô đài cung Quán Khuê
ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
“Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại
sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới
đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và
cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
“Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
“Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước
trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ
lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
“Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù
Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người
ta gọi là vết chân Tây Thi.
“Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường
cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy.
“Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương
Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở
phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa.
“Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam
thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
“Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở
trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm
Phàm hình.
“Phía nam đô thành có Trường Châu uyển,
để làm nơi săn bắn.
Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
Áp Thành để nuôi vịt,
Kê Bi để nuôi gà,
Tửu Thành để nấu rượu.
“Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát
tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là
núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể
qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Tây Thi người nước Việt, sống vào thời
Xuân Thu, 506 trước CN, không rõ mất lúc nào, năm nào, ở đâu, là một trong “tứ
đại mỹ nhân” của Tầu.
Khi cô gái giặt áo bên bờ
sông, bóng soi trên mặt nước sông trong suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy
nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong
vùng xưng tụng nàng là “Tây Thi Trầm Ngư”.
Ngô Việt đánh nhau, Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư của Việt
Câu Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc, làm suy yếu nước Ngô.
Câu Tiễn tuyển hai ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là Trịnh Đán
và Tây Thi.
Tây Thi góp công lớn trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê triều
chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại đất nước.
Sau khi đại thắng, vợ Việt Câu Tiễn muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn sẽ mê
say cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.
Tây Thi và Phạm Lãi có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ Hồ, về
sau không ai biết hai người đi đâu. Có người bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.
Tô Đông Pha có bài thơ về Tây
Thi:
Thủy quang liễm diễm tình
phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm tran nồng mật tổn tươngt
nghi
(Nước dập dờn bừng khi nắng
dọi,
Nước nhạt nhoà xanh lúc mưa
về
Tây Hồ ví tựa Tây Thi
Điểm tranh đậm nhạt vẽ gì
cũng xinh
Người ta thường cho rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn minh
oan cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:
“Nước
mất nhà tan bởi cơ trời
Sao cứ Tây Thi đổ tội hoài
Tây Tử nếu làm Ngô mất nước
Thì xưa Việt mất bởi tay ai?
5)- Khúc Ca Tần Hoài
(Ai luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -
Dương Thiệu Tước - Đêm Tàn Bến Ngự)
Trần Hậu Chủ tên thật là Trần
Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời Nam - Bắc triều bên Tầu.
Ông nổi tiếng là người tài tử phong lưu,
ưa đàn hát vui chơi, trong cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nữ giai nhân, nổi
tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ Hoa, hai người rất được nhà vua sủng
ái.
Vua cho xây điện Quang Chiếu, toàn bằng
gỗ trầm hương để cùng các tài tử giai nhân xướng họa thơ phú, vui ca đàn hát.
Những bài thơ khúc hát soạn ra được
chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân
sau). Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm
đãng. Những cuộc vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.
Trần Hậu Chủ cũng soạn một
khúc hát Hậu Đình Hoa:
Nguyên tác là:
Lệ vũ phương lâm đối cao các
Trân trang điểm chất bản
khuynh thành,
Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất duy hàm thái tiếu tương
nghinh.
Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu
Đình.
Nghĩa:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu
các,
Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu
tươi.
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo
bước
Trước màn chào đón mỉm môi
cười,
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiếu sáng
ngời
Vua Văn Đế nhà Tùy thừa
dịp nhà Hậu Trần nầy, sai đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu
chủ còn đương say rượu, chưa tỉnh.
Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho
rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát “Hậu Đình Hoa” ấy,
Đỗ Mục, nhân một đêm ghé thuyền
trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya mà bấy giờ trong quán,
khách còn say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để
mua vui cho khách.
Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia
sông, Đỗ Mục làm bài thơ, thường gọi là Tần Hoài Dạ Bạc
Nguyên văn:
Yên lung hàn thủy, nguyệt
lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc
hận,
Cách giang do xướng "Hậu
Đình Hoa"
Khói bay, nước lạnh, khói
trăng pha,
Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu
gia.
Hận nước gái buôn không biết
rõ,
Cách sông còn hát “Hậu
Đình Hoa”.
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của
Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:
Vườn Tây Uyển khúc trùng
thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình
Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ
son.
Trong bài hát “Đêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước có câu...
Thuyền mơ trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến, ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Khúc ca Tần Hoài chính là khúc Tần
Hoài Dạ Bạc nói ở trên.
Sông Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy,
lớn thứ ba sau Dương Tử và Hoàng Hà, không chảy ra biển mà đổ nước vào sông
Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài là một quận của Nam Kinh.
6)- Điêu Thuyền
“Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà
này”
(Lý Nho, mưu sĩ Đổng Trác)
Đổng Trác lộng quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu Thuyền là con gái nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp khiến trăng phải xấu hổ mà dấu mình đi (“bế nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm nguyệt say hoa). Điêu Thuyền là một trong “tứ đại mỹ nhân”.
Vương Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác,
nhưng xúi Điêu Thuyền ngoại tình với Lã Bố, con nuôi Đổng Trác. Thế rồi hai cha
con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.
Đổng Trác bị giết rồi, dân chúng thoát
khỏi ách cai trị tàn ác.
Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát,
ánh mắt của Điêu Thuyền được mô tả như sau:
Nhất điểm anh đào khải giáng
thần.
Lưỡng hàng toái ngọc phún
dương xuân.
Đinh hương thiệt thổ hành
cương kiếm.
Yêu trảm tà gian loạn quốc
thần!
dịch:
Một đóa anh đào chúm chím
môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân
tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi
kiếm:
Chém chết gian thần có lúc
thôi!
Bài hát ca ngợi vẻ đẹp Điêu Thuyền:
Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm
y mây cuốn vương vương cánh hồng
Gót
hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Động đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân
một người!
Mao Tôn Cương trong “Thánh Thán Ngoại Thư” bàn về Điêu Thuyền như
sau:
“18 lộ quân chư hầu không giết nỗi Đổng
Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nỗi Trác.
Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt
không thắng nỗi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nỗi.
Ôi,
lấy chăn chiếu làm chiến trường,
lấy son phấn làm khôi
giáp,
lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy nước mắt nũng nịu
làm tên đạn,
lấy lời tình tứ ngọt
ngào làm chiến lược mưu cơ.
Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ
tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"
No comments:
Post a Comment