Những Bà Quả Phụ Năm Xưa
- Thái Thanh
Tôi nhớ ngày tôi còn nhỏ, tôi nghe đài
Radio thường phát bài hát của Trần thiện Thanh "Anh không chết đâu anh
".Bản nhạc một thời vang bóng đi vào lòng người ai cũng biết...
Đêm nay cả nhà đi vắng hết chỉ mình tôi ở
nhà. Đêm dài thăm thẳm vì tôi không ngủ được. Lang thang trên Google, tôi tình
cờ xem được một clip về bà góa phụ vợ của Đại úy Đương năm xưa.
Tôi thật sự bất ngờ và cũng thật xúc động...
Ngần ấy năm trôi qua " Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc
nhở đến những chiến công... " một hình ảnh đẹp của bà Đương xa mất
rồi so với bà bây giờ, khác xưa nhiều quá. Cuộc sống quá khó khăn, bà đã già
nua, khắc khổ. Bốn đứa con chỉ còn có hai và hơn 40 năm rồi mẹ con bà mới đến
được đồi 31 Hạ Lào nơi đại úy Đương ngã xuống. để thắp một nén hương, hốt một
chút đất đưa linh hồn của chồng, của cha về với đất mẹ VN. Nếu không nhờ có sự
giúp đỡ của cộng đồng người Việt bên nước ngoài, bà sẽ không thể nào đến được
nơi này dù chỉ một lần trước khi nhắm mắt. Thật đáng thương biết ngần nào cho số
phận của người phụ nữ trong thời chinh chiến.
Tôi nhỏ bé, tầm hiểu biết còn rất hạn hẹp,
nên tôi không dám nói về chính trị ở đây, không phân biệt là chế độ nào ai đúng
ai sai. Tôi chỉ nói ở đây cái tình con người với những con người khổ đau ấy còn
hiện hữu trên quê hương tôi..
Tôi cũng có một người chị họ con cô tôi,
cũng héo hắt cả một đời như thế. Trước năm 1975, chồng chị là một sỹ quan quân
đội VNCH. Anh chị kết hôn bằng một tình yêu rất đẹp của một thuở xuân thì. Chị
rời bỏ Quy nhơn vào Phan thiết để sống cùng gia đình chồng. Anh đi chinh chiến
quanh năm, lâu lâu mới có một ngày về phép dành cho gia đình. Trong một lần
xông pha ra chiến trường năm 1974 anh đã mất biệt, không có ngày về. Để lại cho
chị hai đứa con thơ dại và một mẹ già. Đứa lớn chỉ mới ba tuổi, đứa bé còn
trong bụng mẹ chưa chào đời và chị chỉ mới 26 tuổi đời. Ngày ấy anh đi, chị vẫn
mong đợi và tin là anh sẽ trở về, dù chị đã mơ thấy anh về trong bộ quân phục đầy
là máu và sau đó anh đi mãi chẳng về nữa dù cả trong mơ. Chồng chị người chiến
sỹ năm xưa đã hy sinh cho tổ quốc, chị và anh cũng đậm nét trong bài hát ngày ấy.
"...Anh, anh không chết
đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con. Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn
người biết yêu đời lính... Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh
nhiệm mầu. Ôi tiếng súng sau cùng đó anh còn nghe tầm đạn đi không anh... Tôi
thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ. Trên khăn tang cô phụ còn lóng
lánh dấu ái ân. Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh
..."
Năm 1975 thời cuộc đã đổi thay, ngày về
của anh đã quá xa xăm chẳng còn hy vọng, chị quyết định lấy ngày anh đi làm
ngày giỗ chồng. Chị vừa chăm sóc mẹ chồng vừa tần tảo nuôi con thơ dại, chị
không có dư thời gian để nghĩ đến cảnh đời bất hạnh của mình. Nhưng đến năm
1983, cha của chị bị đau, chị đưa hai con về Quy nhơn thăm cha. Trên đường về,
một tai nạn thảm khốc xảy ra đã cướp mất 2 đứa con của chị. Đứa con trai đầu và
đứa bé con gái, cả hai cháu đều rất ngoan mặt mũi sáng sủa, xinh đẹp. Chị bị
thương rất nặng, gãy chân và bể cả bánh chè. Sau cơn hôn mê tỉnh dậy chị còn
đau cắt ruột gan khi biết hai đứa con mình đã mất. Chị thành một kẻ tật nguyền
bất hạnh thêm hơn...
Mất chồng, mất cả con thơ và lại không một
khoản tiền nào trợ cấp cho chị vì chị là vợ của sỹ quan chế độ cũ. Sau khi mẹ
chồng chị qua đời, chị về Quy nhơn, phụng dưỡng cha mẹ đẻ của mình. Chị thức
khuya dậy sớm làm thịt, làm chả để bán bánh mì. Gia đình nhà chị, ai cũng nghèo
khổ bệnh tật, chị bương chải với đôi chân khập khễnh của mình góp phần công sức
lo cho cha mẹ, em út cháu con trong nhà. Cứ như thế nhưng chị vẫn hiền hòa,
chân chất cam chịu không than van, nụ cười luôn nở trên môi dù rất héo hắt. Có
một lần nghe chị kể say sưa về ngày chị và anh gặp gỡ nhau hồi xưa ấy, tôi thấy
mắt chị ngời sáng long lanh. Chị còn yêu anh nhiều lắm...
- Chị Bảy ơi... Bây giờ nhà
ngoại cảm nhiều lắm, sao mình không tìm thử hài cốt anh đâu hả chị.
- Tiền đâu mà tìm em, ăn còn
không đủ mà ăn có đâu mà tìm, mà chồng chị là người Quốc gia mà!
Mấy mươi năm trôi qua, cả cuộc đời chị
chăm chút lo cho gia đình không phút nào nghĩ đến bản thân. Những người quả phụ
năm xưa còn sót lại ở VN không có quyền lên tiếng và dòng đời trôi xa mãi chìm
khuất mất họ rồi. Nhưng định mệnh khắc khiệt thì không hề quên chị. Một buổi
chiều trời sẩm tối, chị đi bán về đang chuẩn bị băng qua đường Trần hưng Đạo để
về nhà. Một con bé đi xe máy từ xa lao tới tông vào chị khiến chị té xuống. Nó
hoảng hốt quỳ lạy chị.
- Cô ơi... con xin lỗi cô...
con lỡ... Cô ơi... Con là sinh viên con không có tiền cô ơi !
-Trời ơi... Cô thấy con từ
xa, cô đã sợ cô đứng nép sát lề rồi mà cũng không thoát được...
Con bé vừa khóc vừa lạy chị. Chị nghĩ nó
như con gái mình, thấy cũng tội. Chị nghĩ chắc không đến nỗi nào nên chị cho nó
đi... Nhưng khi chị đứng dậy, chị không gượng dậy nỗi, chị bị gãy chân lần nữa
rồi. Anh Chín em trai chị ở nhà chờ không thấy chị về, anh đi tìm chị và đưa chị
vào bệnh viện, tiền thuốc tựa vào cái bảo hiểm y tế sơ sài đó, chị em chị đều
không có tiền. Lần đó, tôi chỉ kịp tất tả vào thăm chị giúi vào tay chị một ít
tiền rồi đi liền vì đêm đó tôi phải đi Sài gòn thăm con. Một tuần sau về lại
Qui nhơn, tôi đến thăm chị thì chị đã ra viện và chân băng kín bột. Tôi gởi
thêm cho chị một ít tiền của tôi, của con gái tôi cho dì Bảy, của mấy đứa em
dâu tôi và của chị tôi nữa. Con nhà nghèo không nằm lâu trên giường bệnh, chị lại
khập khểnh đi nạn, rồi lại mò mẩm ra chợ bán bánh mì kiếm sống mỗi ngày.
Bẳng một thời gian sau, tôi ghé lại thăm
chị trước khi tôi vào Sài gòn, tôi lại đau lòng khi chị lại bị tai nạn lần nữa.
Lần này, trời mưa to đôi chân khập khểnh của chị làm chị trượt ngã trên đường.
Đôi chân của chị lại bó bột và tệ hơn lần trước nữa, chị không thể đi lại được,
không thể đi bán được nữa, chị đã già chị không còn sức nữa. Chợ thì mua bán ế ẩm,
thuế cao, chị không còn đứa con nào để đỡ đần cho chị, con đường chị đi đã vào
ngõ cụt mất rồi.
Tiền mà tôi cứ thỉnh thoảng giắm giúi
cho chị, tựa hồ như muối bỏ biển mà thôi. Tôi bỏ, tôi không làm từ thiện ở đâu
xa nữa, người mà tôi cần giúp nhất bây giờ là chị. Một người có thật, một người
khổ đau trong đời mà tôi chứng kiến thật sự không hư dối. Một người chị hiền
hòa mà luôn chịu nỗi bất hạnh trong đời...
Đã 46 năm trôi qua, sự khe khắt về lý lịch,
về người của chế độ cũ dần rồi cũng nguôi ngoai. Nhờ đó mà tôi mới được viết
lên những dòng này cho chị họ tôi. Chị Bảy Long, vợ một sỹ quan VNCH, người phụ
nữ thầm lặng gánh chịu những đau thương mất mát của chiến tranh của nghiệp đời.
Chị đã già, tuổi xuân đã qua đi, chị còn bất hạnh hơn cả bà quả phụ đại úy
Đương vì không ai biết đến chị. Hết một đời đến khi nhắm mắt, chị sẽ vĩnh viễn
không bao giờ được hốt một nắm đất nơi anh đã hy sinh để về chùa cúi lạy. Chị
chẳng còn một đứa con nào để nương tựa tuổi già heo hắt bên song. Ôi đất mẹ Việt
nam còn có bao người như thế... Thương biết bao!
Lạy Phật cho tai ương đừng đến với chị nữa,
xin cho chị có được an lành cho đến ngày thanh thản mà đi. Lạy Phật con biết chẳng
còn bao nhiêu ngày nữa đâu xin chở che cho chị Bồ tát ơi...!
Thái Thanh
No comments:
Post a Comment