Xe không chạy trên sông
sao gọi xe đò?
Có lần
tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận
Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong chiếc áo sơ mi cụt tay, khuôn mặt ốm nhăn
nheo màu bánh ít, mắt đăm chiêu sau cặp kiếng dày, ông thủng thỉnh trả lời theo
kiến giải của mình.
Đồng
bằng Nam bộ sông nước chằng chịt, ngày xưa phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò
ghe, cho đến thập niên ba mươi, người Pháp thành lập vài hãng xe chở khách đi
miền Tây. Thời ấy đường bộ chưa phát triển, xe đến bến khách phải chuyển tiếp
bằng đò ghe nên người ta gọi là xe đò cho tiện.
Nghe
vậy thôi, sau này tôi tìm hiểu thêm chút ít, biết rằng người Bắc gọi xe đò là
xe khách hoặc xe ca, còn người Trung lại gọi xe đò giống như người Nam. Một số
người giải thích vì hầu hết các chủ nhà xe đi miền Trung là người Sài Gòn nên
“xe đò” trở thành phương ngữ chung cho tiện. Và rồi câu chuyện sôi nổi hơn khi
nhà văn nhắc tới kỷ niệm thời học sinh trung học từng đi xe đò từ Rạch Giá về
Cần Thơ mà ông có nhắc lại trong tập “Hồi ký Sơn Nam” :
“…Tiền
xe từ Rạch Giá đến Cần Thơ là một đồng hai (120km) nhưng nhỏ tuổi như tôi chỉ
tốn có 6 cắc. Tôi lên xe ngồi để người phụ xế sắp đặt chỗ ngồi cho gọn, khép
nép, chung quanh xe là nhiều người rao hàng để hành khách ăn buổi sáng vì buổi
trưa mới đến bến Cần Thơ. Tôi còn nhỏ, ba tôi cho riêng tôi 2 cắc, rất tủi thân
vì trong khi ấy gia đình khá giả dám trả 1 đồng hai (hai chỗ dành cho trẻ con
rộng rãi hơn) lại dành cho con một cái bánh bao to để ăn dọc đường. Xe khách
bóp kèn inh ỏi, chạy vòng quanh để tìm kiếm khách…”.
Bến xe đò lớn trên đường Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký)
năm 1950, gần Ngã sáu Sài Gòn có tượng Phù Đổng thiên vương (Ảnh
Donald F. Harrison Collection – The Vietnam Centerand Archive)
Nhưng
điều thú vị nhất là ông kể hồi thời kỳ đầu xe đò do người Pháp làm chủ toàn là
loại xe nhỏ chở khách chừng hơn hai mươi người. Nhưng chỉ một thập niên sau,
người Việt mình giàu có tham gia mở công ty lập hãng, nhập cảng máy, khung gầm
từ châu Âu châu Mỹ, đóng thùng thành xe đò loại lớn chở hơn năm chục hành
khách, cạnh tranh ác liệt trong giai đoạn đường bộ được mở rộng và phát triển ở
các tỉnh miền Tây và Ðông Nam Bộ.
Giao
thông kết nối khắp nơi, nhu cầu đi lại của người dân càng nhiều, tạo thành thời
vàng son của xe đò. Chiến tranh Ðông Dương nổ ra, Nhật vào chiếm miền Nam, xăng
dầu khan hiếm, bị giám sát chặt chẽ, ngành xe đò suy giảm, một số hãng xe hoạt
động cầm chừng và phải thay đổi nhiên liệu cho xe hoạt động.
Ông
Sơn Nam kể: “Xe ô tô chở khách phải dùng “ga”, hiểu là than củi tràm, bỏ vào
cái thùng tròn đặt bên hông xe phía sau. Trước khi cho xe nổ máy thì quạt cho
than tràm cháy, hơi ga ấy bị đốt, gây sức ép cho máy xe chạy, gọi “Autogène”,
theo mô hình của Kỹ sư Thịnh Hưng Ngẫu chế tạo ở Sài Gòn”.
Hình
ảnh chiếc xe đò nhỏ chạy bằng than đốt trong cái thùng phía sau xe được lặp lại
từ năm 1975 đến 1985, chắc người Sài Gòn tuổi trung niên trở lên đều biết rõ.
Tôi từng đi loại xe sử dụng nhiên liệu này, mỗi lần chui vào cửa xe phía sau là
đều phải cẩn thận với cái thùng than cháy nóng được treo dính ở đuôi xe. Thường
thì người ta chỉ cải tiến xe đò lỡ – tức là loại xe Renault cũ xì từ giữa thập
niên 50.
Xe đò Renault chạy tuyến từ Huế qua An Lỗ rồi đến
Sịa –trung tâm huyện Quảng điền ngày nay. Hinh chụp 1964. Nguồn Lonnie
M. Long Collection – Vietnam Center
Tuy
giới lái xe gọi đó là xe đò hỏa tiễn nhưng nó chạy chậm hơn xe chạy xăng hoặc
dầu. Có lúc xe chạy ì à ì ạch khi than cháy không hết, lơ xe phải dùng thanh
sắt mở lò đốt cời than. Hoặc thỉnh thoảng gặp đường vồng xóc, than văng ra khỏi
cửa thông không khí, rớt xuống đường cháy đỏ rực. Vô phúc cho chiếc xe đạp nào
chạy phía sau tránh không kịp, cán phải cháy lốp xe.
Xe đò
hỏa tiễn chạy những đường ngắn như Sài Gòn – Long Khánh, Chợ Lớn – Cần Giuộc –
Gò Công, Sài Gòn – Long An, còn xe đò dài vẫn chạy bằng xăng dầu, nhưng không
còn nhiều như trước.
Trên mui
phía đầu xe thường có thùng phuy nước dùng để làm nguội máy, kế tiếp là nơi chở
hàng hóa, xe gắn máy, xe đạp cho khách buôn chuyến và khách đi tỉnh xa.
Tôi
còn nhớ mãi lần đầu được đi xe lô về quê bên ngoại ở Càn Long, Trà Vinh. Năm đó
tôi chín tuổi, đi cùng với người anh bà con. Xe lô có bãi xe ở Bến Bạch Ðằng và
Bến Chương Dương. Bãi xe lô hay nhiều bãi bến xe đò khác khắp nơi trong thành
phố Sài Gòn – Chợ Lớn đều nằm hai dãy dọc theo đường phố. Phòng vé là một cái
quầy hay cái bàn gắn tấm biển to đề tên từng hãng xe, chạy lộ trình nào. Riêng
xe lô không cần bán vé, khách đến bãi xe còn chỗ trống cứ lên, đủ người thì bác
tài chạy. Loại xe này gọi đúng tên là “Location”, sơn màu đen, kiểu xe ô tô chở
chừng bảy tám người nhưng bác tài cố nhét thêm hành khách.
Xe lô
chạy nhanh hơn xe đò vì không bắt khách dọc đường, không lên xuống hàng hóa
cồng kềnh, lại có khi qua cầu tạm không cần bắt hành khách xuống cuốc bộ. Ðể
gió lùa vào cho hỉ hả đám hành khách ngồi chật cứng như nêm, lại thêm giỏ xách
túi bị, va li lỉnh kỉnh, bác tài mở cửa sau bung lên cột chặt lại, người ngồi
phía sau ngó ra phố phường. Xe chạy ra khỏi Phú Lâm, nhìn cảnh đồng lúa xanh
tươi hai bên đường, lòng cảm thấy phơi phới mặc dầu lâu lâu tôi phải nhấc mông
trở cẳng vì bị ngồi bó gối.
Xe đò Ford tại bến xe Nguyễn cư Trinh 1965
Nói là
đi xe lô thì hành khách không cần xuống bộ qua cầu tạm, chứ lần đó tôi vẫn phải
xuống cuốc bộ như bao chuyến xe đò khác. Tôi mới ca cẩm, xe lô cái nỗi gì, có
mà “lô ca chân” theo lời hát của một tuồng cải lương trên truyền hình. Sau năm
1968, cuộc chiến ngày càng ác liệt, cầu đường nhiều nơi bị “mấy ổng” gài mìn
phá hủy, có nơi phải dựng cầu tạm, đầu cầu có đặt trạm kiểm soát của quân cảnh
hay cảnh sát.
Ðường
về Trà Vinh chỉ hơn 160 cây số mà qua mấy chục cây cầu, lại phải chờ phà Mỹ
Thuận. Ði xe lô cho được nhanh mà về đến nơi phải mất năm sáu tiếng đồng hồ,
huống hồ chi hành khách đi miệt Hậu Giang, Cà Mau xuống ở bến xe còn phải đón
đò về nhà ở vùng U Minh, Miệt Thứ mất cả ngày đường. Chỉ có xe thư tức là xe đò
làm nhiệm vụ giao nhận thư từ bưu phẩm chuyển cho bưu điện tỉnh mới được ưu
tiên, không phải lụy phà hay bị cảnh sát xét hỏi.
Bây
giờ xe đò tiến bộ hơn nhiều, xe có máy lạnh, ghế nằm thoải mái cho khách đường
xa, duy chỉ không có phòng vệ sinh trong xe, lại còn tặng thêm nước uống, khăn
ướt lau mặt. Xe chạy nhanh nhờ có cầu qua hai con sông Tiền và sông Hậu, tôi
ngồi xe Mai Linh chạy một lèo về tới chợ Cà Mau chỉ mất sáu tiếng đồng hồ. Nếu
không kể đến loại xe dù bắt khách dọc đường, thì xe đò là phương tiện đi đường
xa tương đối rẻ tiền.
Trước
năm 1975, Xa cảng miền Tây là bến tập trung các xe đò về các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long, bên cạnh đó lại có bến xe Chợ Lớn đi về Cần Giuộc, Gò Công, Lý
Nhơn, về sau bến xe này gộp lại với Xa cảng miền Tây mở rộng thành Bến xe miền
Tây nằm trên đường Kinh Dương Vương quận Bình Tân.
Còn
bến Miền Ðông dành cho xe đi các tỉnh miền Trung và phía Bắc trên đường Petrus
Ký trước kia thì gộp lại với hai bến xe nhỏ là Nguyễn Cư Trinh đi lộ trình cao
nguyên và Nguyễn Thái Học đi Long Hải – Vũng Tàu – Phan Thiết, rồi sau đó vài
năm chuyển về bến xe Văn Thánh, và cuối cùng yên vị tại Bến xe miền Ðông trên
đường Ðinh Bộ Lĩnh hiện nay.
Nhưng
nghe đâu hai bến xe này sẽ phải dời ra xã Tân Túc huyện Bình Chánh và Suối Tiên
Q. 9 để có diện tích rộng hơn, đáp ứng được cho nhu cầu ngày càng tăng. Sẽ
thiếu sót nếu không nhắc đến Bến xe An Sương, bến này đúng ra có xe đi Tây Ninh
– Bình Phước – Bù Ðăng, 9 Xe đi Bù Ðốp vùng Tây Trường Sơn, nhưng cũng có xe đi
vài tỉnh thành của cả ba miền, do hai bến xe miền Ðông và miền Tây nhỏ hẹp.
Ai
cũng có kỷ niệm lần đầu đi xe đò. Mỗi chuyến xe chuyên chở nỗi niềm hoài niệm.
Có người nhớ chuyện tiền vé như nhà văn Sơn Nam. Có người lòng phơi phới nhìn
thấy phong cảnh đồng lúa xanh tươi chạy dài bên quốc lộ như tôi. Cũng có người
nhớ mùi mồ hôi, mùi xăng dầu giữa nắng gió miền Trung. Nhớ bến bãi ồn ào í ới
ngày xưa. Và cũng có người tuổi đời chồng chất, nhớ cảnh xuống xe qua cầu xe
lửa Bến Lức, Tân An thuở xa lắc xa lơ.
Bài viết:
Yên Huỳnh
No comments:
Post a Comment