CON BA ĐỒNG THÁP
Cái lạnh của mùa xuân ở miền Nam nước
Mỹ không đến nỗi nào, chỉ cần mặc áo dầy hơn ngày thường và khoác lên chiếc áo
nỉ mỏng là được rồi. Không phải trùm đầu chừa mũi để thở và hai mắt để nhìn...
như ở các miền Bắc Mỹ, miền Trung Tây Hoa Kỳ: Chicago, Michigan, Minnesota… giá
rét lạnh lùng giữa mùa thu năm nầy cho đến giữa mùa xuân năm mới.
Đêm nay bầu trời bao la tối đen như
nhuộm mực, trên cao có chi chít những vì sao. Mới nhìn thì tối thui, nhưng định
thần nhìn kỹ một hồi thì trên nền trời nhấp nhánh li ti hằng hà sa số vạn ngàn
vì sao. Nhà tôi trở nên yên lặng, sau bữa cơm chiều vì thức quá nửa đêm trừ tịch,
và cả nhà ai cũng thấm mệt nên vào ngủ hết sau khi cúng Giao Thừa. Riêng tôi vẫn
không sao ngủ và quên được những gì trên quê hương nơi tôi sanh ra và lớn… Biết
bao nhiêu thăng trầm dâu bể của dòng đời, và phế hưng của đất nước dấu yêu! Kể
từ sau ngày Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, gia đình tôi không còn chuẩn bị mừng
xuân, đón Tết, hay ăn Tết Nguyên Đán gì nữa cả. Phải, làm sao vui khi gia vong
quốc biến, nhà cửa giặc cướp, anh em ly tán mỗi người một phương trời xa thẳm mờ
xa!
Bởi giặc vào không bao lâu thì cha tôi
qua đời, chồng tôi cũng chết trong tù cải tạo nghiệt ngã! Cho dù chúng tôi có
muốn cúng quải vào ngày giỗ, Tết... cũng không đủ điều kiện để mua sắm những thứ
cần để nấu món ăn như tôm, cá, thịt, hay bánh trái đặc biệt trong những ngày giỗ,
trong ba ngày Tết... như thuở giặc chưa tràn vào chiếm miền Nam. Chiều Ba Mươi
Tết con người xác xao nhìn khói hương lởn vởn trên bàn thờ có bình hoa, bình nước,
gói thèo lèo thay cho những món thịt kh,o dưa giá, gỏi, bì, nem, lạp xưởng, mứt,
rượu, trà nhận cảng... để cúng rước ông bà về ăn Tết mà trong tẻ lạnh mà nghe
lòng thổn thức nghe lòng buồn vời vợi! Với Tôi khi cúng luôn thành tâm nguyện cầu:
“...Xin Ơn Trên hộ độ cho gia đình được thoát khỏi đất nước thương đau, khốn khổ
trùng trùng...” Nhưng tôi cảm thấy không có lấy một tia hy vọng mỏng manh nào,
để gia đình vượt thoát khỏi đất nước Cộng sản đang cai trị nầy!
Ba
má tôi sanh trước sau năm người con, kể luôn tôi là đứa con út, nhưng giờ ông
bà chỉ còn lại còn bốn đứa. Anh cả tôi ra đời có mấy hôm thì chết, nên giờ anh
em chúng tôi chỉ có: anh Ba Hiếu, anh Tư Hiền, chị Năm Hạnh, Hương đứa con chót
bẹt đích thị chính là tôi đây!
Dù
đứa con đầu ra đời không bao lâu đã không tồn tại trên thế gian nầy nữa. Nhưng
dấu ấn đau thương vẫn còn khắc ghi trong lòng mẹ, nên mỗi lần nhắc đến đứa con
vắn số đó, má tôi đều rướm nước mắt xót đau. Bởi “con cá sẩy là con cá lớn” mặc
dù tính đến nay thời gian cũng khá dài, đã qua mấy mươi năm rồi.
Má tôi vẫn thường nhắc những kỷ niệm
xưa về mấy đứa con của bà. Lúc giặc Bắc chưa tràn vào miền Nam. Thuở đó mỗi khi
gia đình đủ mặt trong bữa giỗ, Tết nhứt, hoặc những bữa ăn cuối tuần mẹ nấu đãi
con, cháu, rể, dâu… thì má tôi có nhiều đề tài để nhắc, để kể cho cả gia đình nghe...
Tôi vẫn còn nhớ rất rõ, vào hôm đám giỗ
bà nội, trong lúc ăn uống, anh Tiến chồng chị Hạnh mặt mày sáng rỡ, cười tích
toác như vừa trúng số độc đác không bằng! Anh ta ngoài điệu đà còn bẽ miệng, bẻ
mồm... rồi vui vẻ bảo với mọi người:
-
Năm tới khi họp mặt gia đình, nhà mình phải có thêm một chỗ ngồi nữa đó
ba má và quý vị…
Má
tôi chưng hửng ngạc nhiên nhìn ba rồi nhìn các con như thầm hỏi, chuyện gì? Còn
anh Tư và chị dâu, thì đổ dồn nhìn đứa em gái luống tuổi chưa chồng nầy?
Khiến tôi nhột nhạt nhăn mặt, trợn mắt
lớn tiếng:
-
Tại sao ai cũng nhìn em hết vậy? Nè anh Tiến muốn thố lộ “tầm tinh”
(tâm tình), hay nói gì thì nói hết ra một lượt đi, đừng để mọi người đoán mò
nghĩ và tưởng em sắp sửa đi cưới chồng... và nhìn em như vậy thì mích lòng lắm
đó nghe!
Bây
giờ thì những cặp mắt dò hỏi, thắc mắc lại đổ dồn hướng về chồng chị Hạnh… Còn
cái bà Hạnh không qua mặt được đứa em út nầy đâu. Bởi hàng ngày chị ta lanh
chanh tía lia cái miệng, cái mặt luôn vắt hất lên nhìn trời hiu quanh bằng hột
tiêu thấy mắc ghét! Đó là chị gái Năm Hạnh của tôi, bà nầy thường “kênh xì bo”
lắm! Nhưng xét ra cũng phải, và cũng thật xứng đáng! Vì chồng chị con nhà đàng
hoàng giàu có, đẹp giai, học giỏi ra trường đang làm Đốc Sự Hành Chánh ngoài Quận
Ba. Chị tôi là nữ dược sĩ tốt nghiệp trường y dược Sài Gòn (thuở đó ngon lành lắm
chớ bộ!) Anh Tiến và chị Hạnh cưới nhau không lâu, ông bà già chồng mở cho cái
nhà thuốc tây “Hạnh” ở chợ Bà Chiểu.
Hôm nay trên mâm cơm nghe chồng nói!
Bà ta bỗng dưng tẽn tò ngó xuống cười mỉm chi, e thẹn như các cô gái mới về nhà
chồng! Chị làm vẻ mặt mày lơ mơ, nhỏ nhẹ dịu dàng như con mèo đang nũng nịu với
chủ khiến tôi thấy mà ứa gan, mà mắc ghét quá chừng chừng đi thôi!
Anh
rể tôi âu yếm nhìn vợ vui vẻ bảo:
- Thưa ba má, các anh chị, và dì út Hương năm
tới sẽ có cháu bồng vì em Hạnh đã có thai…
Cả
nhà vỗ tay lốp bốp, đúng là một tin mừng, vì nhà chồng chị đây là đứa cháu nội
đầu tiên, và bên ba má tôi cũng là đứa cháu ngoại đầu. Hai vợ chồng chị cưới
nhau hai năm rồi, hai bên đều chờ mong có cháu… Cho mãi đến nay mới có tin thì
cả nhà không vui mừng sao được nè!
Bữa giỗ đã có nhiều món ăn má tôi nấu
ngon, nhưng tin chị Hạnh có bầu, trong gia đình ai cũng vui vẻ nên cảm thấy
càng ngon miệng hơn… Tôi thấy trên bàn có nhiều món ăn, nào là: Sườn non xào
chua ngọt với cà tô-mách, dưa leo, cần tàu, hành củ xắt miếng lớn. Kế bên dĩa lớn
chim bồ câu ra-ràng (mới mọc long cánh) rô-ti với ngũ vị hương nước dừa... mùi
vân vê nồng nàn phưng phứt. Gần đó dĩa có lòng sâu là ngó sen trộn gỏi với tôm
càng xanh nướng xé tơi, thịt ba chỉ xắt mỏng trên mặt còn có rau thơm xắt nhuyễn
đậu phộng rang đâm bẻ hai bể ba... Món gỏi nầy má tôi làm để ăn kèm với bánh phồng
tôm Sa Giang chiên dòn thiệt là tuyệt cú mèo!
Chị Ba vợ anh Hiếu mới học nấu nồi cơm
nị (kiểu Ấn Độ) và ca-ri bò (vì má tôi không thích thịt dê). Còn món giò heo hầm
với măng của má tôi thì tuyệt đỉnh anh hùng rồi khỏi phải khen… Trên bàn đã có
chim bồ câu quay rồi mà má tôi còn làm món bắt mắt, ngon miệng nhứt để cha con
chúng tôi ăn sạch nồi sạch ơ... Đó là món cá cơm trộn bột chiên giòn. Món nầy
mà ăn kèm với rau càng cua xanh dờn, non nhẫn bóp xổi với chanh, muối, đường
thêm tiêu cà và muỗng dầu ăn.
Trong những món ăn thượng hảo hạng hôm
nay, xen vào món cá cơm chiên giòn với rau càng cua là món bình dân của Nam Kỳ
Lục Tỉnh, dù ngon miệng nhưng thiệt là trật chìa! Tôi thấy cần phải có lý do chớ,
vì thế bèn lên tiếng hỏi mẹ mình:
-
Má à, con lấy làm lạ, giỗ nội má nấu toàn là những món ăn thượng đẳng,
ăn ngon quá chừng và nhiều nữa... Nhưng sao lại lọt món cá cơm chiên dòn ăn kèm
với rau càng cua vậy má?
Ba
tôi là cột trụ của gia đình, lệnh ông với con cái như núi! Ông sai bảo việc chi
thì đứa nào cũng nghe và làm theo răm rắp. Ba tôi cũng luôn được má chiều chuộng
như ông vua không bằng!
Bởi ba tôi đã sung sướng ngay từ nhỏ.
Ông là con của gia đình phú hộ ở miệt Cần Giờ, còn rất trẻ ra thành thị đi học
đỗ đạt và đi làm cho cơ sở thương mại của Tây. Khi Tây rút về nước có ý mời ba
tôi theo, nhưng ông không bằng lòng vì ba là con một của ông bà nội. Tài sản ruộng
nương của ông bà để lại, ba tôi ở không cả đời tiêu xài cũng không hết... thì
qua xứ người làm gì... Tây đi rồi, ba tôi qua làm cho Chánh phủ ở một Bộ nọ, rồi
nghe lời ông bà nội cưới má tôi là con gái lớn của ông Cả cũng thuộc hàng giàu
có, tiếng tăm một vùng ở làng thôn.
Ba tôi ngồi giữa, vợ con ngồi hai bên
chiếc bàn hình chữ nhật. Ông vui vẻ nở nụ cười rạng rỡ cái miệng, chiếu sáng
đôi mắt, trên gương mặt người đàn ông trung niên có nét trầm tĩnh, hả hê niềm hạnh
phúc gia đình bên vợ hiền và sự thành công của các con.
Trước hết phải nói về anh Tư Hiền tôi
đương kiêm là giáo sư Đệ nhị cấp, ra trường không bao lâu thì cưới cô học sinh
Đệ nhứt thi rớt tú tài đôi. Bởi nàng ta lỡ yêu nhầm ông anh nhát gái và dại khờ
của tôi!
Đang chìm trong nghĩ ngợi thì ba tôi gắp
miếng cá cơm để vào miệng nhai rào rạo. Ông vui vẻ bởi tin chị Hạnh có thai, và
má nấu ăn hợp khẩu vị ba nhứt. Ông ôn tồn nhìn cô con gái út nầy trả lời thế vợ:
-
Nhiều món ăn ngon trong ngày cúng giỗ nội nhưng lúc nào má con cũng làm
món cá cơm chiên giòn. Vì lúc sanh thời bà nội thường bảo: “Khi tao chết, ngày
cúng giỗ đừng nấu nướng chi cho mệt. Chỉ mua cá cơm về chiên giòn ăn với càng
cua, hay bông súng bóp xổi được rồi…” Theo lời bà dặn, nên má con năm nào cúng
giỗ bà cũng làm món cá cơm…
Hoàng
Yến vợ của anh Hiền là chị dâu thứ Tư của tôi, thiệt là nịnh bợ hết chỗ nói!
Nàng ta lanh lẹ lên tiếng:
- Con biết, tại má thương ba và hiếu thảo với
bà. Cá cơm rẻ tiền, dở nhưng qua tay khéo léo của má, thì cá dở, cá không ngon
cũng thành món ngon hợp khẩu vị với tất cả mọi người…
Ối
giời ơi! Bà nầy dân Bắc Kỳ năm mươi tư, có miệng lưỡi ngọt ngào đến đỗi bả nói
kiến trong lỗ cũng bò ra! Đúng thế, bà chị dâu vợ anh Hiền khôn ngoan nên được
lòng cha mẹ chồng và anh em họ nhà chồng… Nhưng chị cũng ớn cái miệng cô út
Hương nầy lắm! Bởi con bé hay chọc ghẹo bả, cho nên luôn được bả rộng rãi trám
họng bằng nhiều quà cáp trong ngày sinh nhựt, Giáng sinh, Tết Nguyên Đán… và thỉnh
thoảng còn dúi vào tay cho mấy chục ăn bánh nữa!
Nhưng tôi nghĩ thiệt mình là đứa không
biết điều luôn “kê tủ đứng” bà chị dâu mình, ấy vậy mà chị chỉ cười trừ chớ
không nhỏ mọn, giận, ghét, cô em chồng út được cưng nhứt gia đình nầy.
Chị vừa dứt lời, thì được ngay cái cười
hài lòng của má tôi. Còn ba thì gật gù tỏ ý đồng quan điểm với con dâu mình.
Coi kìa anh Tư tôi đang cười híp mắt, phình hai cánh mũi chắc là anh ta thầm
khen vợ mình hiểu biết chuyện và biết làm vui lòng người…
Cha chả, thiệt là cái anh nhát gái
nhưng lại “thờ bà hết chỗ chê” khiến tui nhịn không được liền chẩu mỏ nói mát:
- Mèn ơi, trong gia đình mình, em có hai bà chị
dâu, nhưng chị Tư là số một, có cái miệng lúc nào cũng “ngọt như đường cát, mát
như đường phèn” hết á! Nầy chị Hoàng Yến, má muốn mọi bữa cơm có món ngon như
hôm nay, vậy chị thử có hiếu với má ngày nào cũng nấu cho má ăn như vậy đi, chớ
khi chết rồi đâu có ăn được… Theo em còn sống lễ nghĩa hiếu thảo mới thực tế,
chết rồi thì hết… có ai mà biết “chi, mô, răng, rứa…”
Tôi
cười ngất ngất khi trở giọng điệu nói tiếng Huế dở ẹt, trật lất của mình! Còn
chị dâu tôi như bị mắc nghẹn bởi cô em chồng bất ngờ tấn công!
Má tôi liền đỡ lời giải vây cho con
dâu, bà liếc xéo tôi rồi bảo:
- Ăn đi, cứ hay nói ngang, nói bướng… hiếu thảo
cần gì lộ liễu như con bày sao? Bộ muốn ăn ngon rồi xúi chị Yến nấu chớ gì? Cử
chỉ, lời ăn tiếng nói lễ phép kính trọng là đủ rồi. Con hãy cố gắng sau nầy có
một tấm chồng hiền lành biết thương gia đình là được. Má có phước trời cho hai
con dâu, Hoàng Yến vợ thằng Tư thì bặt thiệp giỏi về buôn bán, có cái miệng ai
nghe thấy cũng thương cũng mến… Ăn nên làm ra có nhà cửa xe cộ đề huề, chớ cái
nghề dạy học của anh bây có sướng, nhàn hạ nhưng lương ba cọc ba đồng thôi…
Không nhờ con Yến thì gia đình nó làm sao sung túc như bây giờ … Nè ông thấy
tui nói có đúng không vậy ông?
Ba
tôi gật gù bảo đồng tình với vợ về con dâu. Má tôi dừng lại uống nước, dĩ nhiên
là chúng tôi ai mà không biết anh Tư giàu nhứt rồi. Vì ba má chị Yến là thầu xe
hơi và xe gắn máy, như Vespa, vélo-solex, Honda…. Sau khi cưới với anh tôi, ba
má chị cho hẳn anh chị cái tiệm bán xe Honda ở ngã ba Ông Tạ. Vì chị có hai anh
em, ông anh du học ở Đức, ra trường không chịu về, sang Pháp làm việc và đã cưới
vợ đầm. Chị ủm của gọn hơ trọn gói, thiệt cái anh Tư Hiền của tôi “lù khù có
ông Cù độ mạng” là người sanh bọc điều cho nên anh đúng là chuột sa hũ nếp của
vợ!
Trong gia đình nầy còn có anh chị Ba
Hiếu của chúng tôi nữa chớ. Mà má tôi không nể nang chút nào, thường gọi trước
mặt chị, là “Con Đồng Tháp” hoặc là “Con
Ba Đồng Tháp”. Còn bọn em chồng và họ hàng nhà chồng cũng hùa với má gọi là chị
Ba Đồng Tháp, thím Ba Đồng Tháp, em Ba Đồng Tháp… Có người gọi thẳng, cũng có
người gọi lén, lúc nào không có chị Hiếu ở đâu đó gần họ.
Nhớ lúc đầu mới biết chị Thu Hồng (vợ
anh Hiếu) quen với anh Ba Hiếu, má tôi giận con tức lây đến chị, nên gọi chị là
con “Ba Đồng Tháp” cho bõ ghét! Vì trong lòng má tôi chị Thu Hồng không xứng
đáng làm vợ cháu đích tôn của hai bên ngoại nội, và làm con dâu cả của bà!
Chỉ có vậy thôi, tội nghiệp anh Ba tôi
lúc đó cũng thất điên bát đảo vì phản ứng của gia đình nhứt là má tôi và đám em
chồng sanh ra lớn lên ở thành thị, được nuông chiều và hay quậy phá… Nhưng thật
ra anh chị em chúng tôi thương nhau và luôn ngầm giúp đỡ cho nhau nhiều thứ lắm...
Số là bên nội cũng như bên ngoại của
chúng tôi ít con cháu, bởi “đặng hào của” chớ “không đặng hào con” nên khi ba
má tôi cưới nhau rồi, thì hai bên đợi mong cháu bồng dài cả cổ. Nội ngoại tôi
ngày lành tháng tốt không đi chùa miễu được, thì ở nhà cũng nhang đăng, trà, quả...
tươm tất cúng lạy cầu nguyện cho má tôi sớm có con, mà còn tham lam đòi Ơn Trên
phải cho bà sanh con trai nữa kia!
Ông Trời có đức háo sanh và “Hoàng
Thiên bất phụ hảo tâm nhân” Nửa năm sau má tôi mang thai. Ngoại lật đật đem bà
Bảy Mận xồn xồn, chồng chết không con ở xóm trong, kiếm sống bằng nghề làm mướn
việc rẫy nương, hoặc ai gọi bơi xuồng chèo ghe, nuôi bịnh gì bà cũng làm…
Khi nghe ngoại nhờ giúp, bà Bảy vui vẻ
mừng lắm bảo với ngoại tôi:
-
Cảm ơn bác Cả cho cháu đi làm giúp cô Hai. Thưa bác, có ăn có chỗ ở đủ
rồi, lương tháng bao nhiêu cũng được, cháu không họ hang, con cái cũng không
có, nên không cần phải nhiều tiền để tiêu xài…
Ngoại tôi có vẻ hài lòng về cách ăn
nói lễ phép, và thiệt tình của bà Bảy Mận. Ngoại cười bảo:
-
Bây nói vậy chớ, ít nhiều gì cũng có để mua sắm … Bây cứ siêng năng
chăm sóc cô Hai tốt thì vợ chồng nó không bạc đãi bây đâu… Nếu thiếu thốn cần
gì trước khi đi thì cho tao biết. Sáng sớm mai bơi xuồng đưa tao ra lộ đá, xuống
chợ quận mua ít đồ khô về đám giỗ… Bây cũng đi theo, tao sẽ mua vải may cho hai
bộ đồ mới, chiều về lại chị Sáu Cứ thợ may trong xóm đo may xong, tiền công tao
sẽ trả cho. Áo quần của bây cái nào cũ quá thì bỏ hoặc cho người ta đi, đừng có
tiếc mà đem theo lủ khủ lên đó sẽ không mặc…
Nội, ngoại tôi thi nhau tễ thuốc (thuốc
tễ viên tròn bằng ngón cái, gồm có các vị thuốc và mật ong) ngoài ra còn hốt
thêm thuốc nam, thuốc Bắc an thai, bổ dưỡng cho má tôi uống để mẹ tươi tốt, thằng
bé ra đời sẽ thông minh… Hai bà nườm nượp đem thuốc cho con, cho dâu chứa ở nhà
bếp như tiệm thuốc Bắc. Chắc lúc đó má tôi uống thuốc cũng đủ no, khỏi cần phải
ăn cơm! Đến ngày nở nhụy khai hoa, má tôi đã sanh được quý tử, làm đẹp lòng chồng
và đem niềm vui lớn và không phụ lòng cha mẹ hai bên. Nhưng không bao lâu thì đứa
bé qua đời! Còn nỗi đau khổ thảm sầu nào hơn cho kẻ làm cha mẹ, và nội ngoại
hai bên mất con, mất cháu...
Đau
buồn mất con, mất cháu của đại gia đình rồi cũng nguôi ngoai theo thời gian năm
tháng. Vào mùa thu năm sau má tôi mang thai đứa con thứ hai. Lần nầy hai bà nội
ngoại chăm sóc hết sức kỹ lưỡng gấp bội lần mang thai đầu lòng… Ngoài thuốc
thang, hai bà còn xin bùa, niệt ở các miễu, các am nghe đồn có thầy bà cốt đồng
giỏi, ngừa bịnh hay, tâm linh thần thông quảng đại, biết cả quá khứ vị lai… Thế
là trước sau gì hai bà cũng tìm tới với quà lễ hậu hĩ, và được đồng bóng đáp lại
nào nước thánh, bùa lỗ ban vẽ lăng quăng trên giấy hồng đơn đỏ bằng mực tàu
đen…
Anh Ba Hiếu tôi khóc tiếng chào đời,
và má nằm cữ ở nhà thương sanh mười ngày có hai bà nội ngoại túc trực chăm sóc.
Khi nhờ thầy coi được giờ lành, ngày tốt… thì ngoại bao xe đưa má tôi về thẳng
dưới nhà để hai bà tự tay chăm sóc! Anh Ba lớn dần trong sự nuông chiều yêu
thương hết mức của gia đình. Anh là tâm can bửu bối của ba má và nội ngoại
chúng tôi đó! Cứ mỗi lần trở gió, trái trời hay sắp lật, dợm ngồi, bò… bị nóng
một chút là cả nhà lính quýnh, lăng xăng… Ẵm đi trị thuốc tây, thuốc ta tưới hột
sen… Thiệt ông bà ta nói:“nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột” chẳng có sai
chút nào!
Anh Hiếu tôi giống ba ở tướng tá cao
ráo, nước da trắng, mặt mày sáng sủa. Anh tôi mặt mài điềm đạm, hiền lành ăn
nói nhỏ nhẹ dễ thương, nhưng đầu óc ảnh tối hù (các anh chị tôi lén nói như vậy!)
bởi anh thi hai lần mới được vào Đệ thất Trung học trường công. Đến khi thi lấy
bằng trung học Đệ nhất cấp bốn lần ạch đụi lắm mới đậu thứ. Tú Tài một liền tù
tì ba năm (6 lần) trợt vỏ chuối. Rồi tới tuổi, anh phải nhập ngũ tùng chinh,
nên anh vào lính Hạ Sĩ quan…
Đó cũng là nỗi buồn của ba má tôi, nhứt
là má hay so sánh với con bà nầy cùng tuổi anh kẻ sĩ quan Đà Lạt, con bà kia Sĩ
quan Hải quân, ra trường sĩ quan Thủ Đức… Má tôi càng bực tức càm ràm anh Ba
tôi nhiều hơn. Bởi khi nghe con bà Hai bán bánh bò xóm trong nghèo rớt mồng tơi
cũng thi đậu tú tài đôi, đậu luôn vào trường sĩ quan Không quân, rồi được đi thụ
huấn chuyên ngành ở Mỹ...
Má tôi ở thành thị, con cái học hành
đã tiến bộ nhiều nhưng vẫn còn thiển cận quá đi! Bà luôn có ý nghĩ: “Con vua
thì nối dòng vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá da” Nồi ơi, bộ con nhà nghèo không
được quyền học giỏi, thi đậu và làm quan cao chức trọng sao? Nhưng không trách
má kính yêu của chúng tôi được! Vì đó là nỗi lòng của người mẹ, bởi lúc nào mẹ
cũng muốn con mình cái gì cũng tốt, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng hơn thiên hạ!
Anh Ba Hiếu tôi ra trường Hạ sĩ quan,
về làm Truyền tin ở Mỹ Tho và anh gặp chị Thu Hồng nhân viên làm ở Ty Điền Địa
cũng ở Mỹ Tho, và hai người họ đi đến kết tóc se tơ sau nầy!
Thấy cháu trai lớn của ba má tôi đã đến
tuổi lập gia đình, nội, ngoại tìm các cô giới thiệu cho anh nhưng cũng khó
khăn, vì thuở đó các cô có bằng Trung học trở lên thì ngó cao lắm! Mặc dù gia cảnh
anh tốt, anh tốt nhiều thứ tốt… nhưng cũng chưa đủ tốt với những đối tượng má
tôi đôn đáo tìm kiếm cho anh và sẽ là dâu bà như: y tá, giáo viên… những cô có
nghề nghiệp từ bậc trung ra. Nhưng tội nghiệp, chẳng cô nào thèm anh Ba Hiếu hiền
lành hiếu thảo của tui. Bởi các cô luôn mang ý nghĩ: “Thà rằng chết ở rừng mai/ Còn
hơn chết ở trên tay cánh gà” hay “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn
là le lói suốt năm canh”.
Năm đó tôi học lớp Đệ tứ, cuối năm
trung học Đệ nhất cấp, anh Ba về thăm nhà vào ngày lễ Quân Lực 19 tháng 6. Anh
tốt lắm lần nầy rủ em đi xem hát, sau đó đi ăn và còn dúi tiền vào tay cho nữa?
Tôi là con bé nổi tiếng trong gia đình nhạy bén và đa nghi hơn Tào Tháo! Lấy
làm lạ bỗng dưng sao anh Ba tốt với mình quá tầm mức bình thường như vậy?
Thừa lúc nhà không có ai, tôi khều hỏi
nhỏ anh mình:
-
Nè ông anh thân mến của tui ơi, muốn gì thì cứ nói con nhỏ nầy sẽ giúp
cho, đừng để trong bụng ấm ách đó. Nói đi anh Ba, em biết anh có chuyện mà, em
nghe đây, anh cứ nói đi còn chần chờ gì nữa?
Ông anh tôi vẫn bình tâm như vại, cười
khì khì chớ không chịu nói. Tôi bèn trở giọng cải lương sang Hồ quảng… Ra điệu
bộ, cười cười, liếc liếc rồi ẹo mình, múa tay: “Như ta đây mùa lạnh kiếm chồng,
mùa đông cưới vợ… Ải ải cà lùng tùng xèng, xèng… cắt, cắt…”
Không nhịn được anh Ba đang bưng tách
trà uống, chợt cười văng nước tùm lum. Tui thì cười đến ngã gập người xuống,
tóc bị sút ra khỏi kẹp thiệt giống y như mụ điên! Còn hụt hẫng trong tiếng cười
tôi đoán mò:
-
À, bộ anh quen với cô nào bị cổ đá đít cho mọc sừng rồi hả anh Ba? Đừng
lo anh có con em vừa chằng vừa cà chớn nầy sẽ đi xin cổ tí huyết, bởi cái tội
dám bỏ anh Ba con nhà giàu đẹp trai, hiền lành của em… Vậy hãy nói cổ ở đâu đi,
cứ nói em sẽ đi thanh toán liền cho anh…
Anh
Ba tôi cười mỉm chi cọp trông thật có duyên, và đôi gò má anh lại ửng hồng nữa
kia. Anh mấp máy đôi môi rồi thật thà tâm tình:
- Ở Mỹ Tho anh có quen với cô Thu Hồng lớn hơn
em bốn tuổi. Cô hiền lành, dễ thương, bình dân và không ngó cao như mấy cô gái
khác. Gia đình cô tốt, là con út trong có ba người anh. Ba má cô có nhiều ruộng
và đang sinh sống ở vùng Đồng Tháp Mười. Lúc nhỏ cô ở nhà ông cậu đi học ở
Trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho, và là cháu ruột của đương kim Phó Ty Điền Địa.
Ba má cô không muốn cho con gái học cao, nhưng muốn cô có nếp sống ở thị thành
chớ không muốn con lam lũ chân lấm tay bùn ở ruộng đồng như mấy anh, nên mới
cho cổ đi học ở thị thành và đi làm…
Tôi
lắng nghe và mỉm cười nhìn anh:
- Vậy là cô ta đã lọt vào giếng mắt đen thui
như mực Tàu của anh rồi phải không? Anh đã đêm không ăn, ngày không ngủ thao
thao, thức thức, nhớ nhớ, thương hình bóng cô ta chớ gì nữa? Nhưng mà cô ta có
đáp lại tình anh không cái đã? Chớ yêu đơn phương thì mệt lắm anh Ba ơi…
Anh
tôi chưng hửng, chớp mắt rồi lanh miệng:
-
Sao em rành chuyện tình yêu nam nữ quá vậy? Bộ em yêu ai rồi hả…? Không
được, còn nhỏ phải cố gắng học hành xong rồi mới tính... Đừng như anh rớt lên,
rớt xuống ba má sẽ buồn…
Tôi
nhăn mặt:
-
Thôi lo chuyện của anh đi, đừng có nói hay để ý đến em. Bởi em xem phim
và đọc tiểu thuyết biết chớ có yêu quỉ quái gì đâu…
Anh
Ba tôi tươi nét mặt, tiếp:
- Dĩ nhiên là cô ta cũng thương anh lắm chớ…
Anh định sẽ cưới cô ta mà chưa dám nói với ba má… Để qua lễ anh đi rồi thì em
nói với má và dò coi má nghĩ sao dùm anh nghe Hương…
- Vậy thì anh phải trả công sức cho con nhỏ nầy
mới phải chớ. Vì em sẽ phải dùng miệng lưỡi Tô Tần khuyến dụ má chịu cưới cô ta
cho anh!
- Ờ được được, cái gì anh cũng chịu, em muốn gì
thì cứ nói đi…
- Vậy thì mua cho em mấy
cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao, sửa chiếc xe Velo dùm em khi chạy nổ lớn quá
hình như có kẹt gì trong máy… Mỗi tháng cho em thêm tí tiền ăn quà đến khi nào
cưới vợ thì thôi…
Anh
Ba tôi cười ngất:
-
Con nhỏ tham lam quá, có tháng nào anh không cho tiền quà em đâu… Tiền
ăn hàng bánh mỗi tháng lớp ba má, anh, chị cho, anh nghĩ em keo kiết không dám
xài, cứ để dành nay chắc chất thành núi rồi…
Tôi
cười hì hì nheo mắt:
-
Anh nghĩ xem, trên thế gian nầy có ai chê tiền, hoặc nói mình có đủ tiền
đâu anh Ba của em…
Sài Gòn hôm nay trời nắng đẹp, những bụi
hoa hồng trồng dọc tường nhà trước cành lá xanh biếc, và gai họn quắc... Bông nở
thắm tươi đỏ, vàng, hường, trắng... lunh linh trong gió mát rượi của mùa xuân
chớm sang hè...
Trong
bữa cơm chiều hôm đó của gia đình chúng tôi có cả vợ chồng anh Tư Hiền, vợ chồng
chị Hạnh. Sau giờ làm việc họ ghé qua ăn ké, vì biết má tôi sẽ nấu nhiều món
ngon, để tiễn anh Ba sáng ngày mai đi chuyến xe lô Minh Chánh sớm nhứt trở lại
Mỹ Tho, tiếp tục cuộc đời nhà binh của anh.
Bữa ăn tàn trong những món ăn ngon, những
câu chuyện hào hứng của chị dâu HoàngYến, và chị Hạnh cái bụng đội áo rồi mà
cũng nổ như bắp rang, như pháo đêm Giao Thừa. Tôi phụ hai chị dọn thức ăn thừa
qua gần chỗ rửa chén, còn ba ông anh kẻ bưng bánh ngọt, nước trà qua. Còn trái
cây bà vú đã cắt sẵn bày hai dĩa kiểu trong tủ lạnh.
Tôi nhìn anh Ba Hiếu dò xét. Mặt anh vẫn
vô tư lự, hiền lành bưng tách nước trà thổi pho pho cho nguội để uống. Lẹ quay
sang má nheo mắt gợi ý ngầm bảo “đến thời điểm rồi đó, má phát pháo nổ về anh
Ba Hiếu đi…” Má kéo ghế ngồi sát bên ba hơn, điệu đà nhìn thằng con yêu quý đến
giờ nầy vẫn còn phòng không gối chiếc! Trong khi hai em đứa đã có con, đứa đang
mang bầu.
Má mỉm cười, trìu mến nhìn anh Ba, tằng
hắng lấy giọng lên tiếng:
-
Má nghe thiên hạ đồn rằng, anh Ba nhà mình có quen và yêu cô gái ở Mỹ
Tho xinh lắm phải không? Bàng quan thì biết hết, chỉ có gia đình mình chưa ai
biết, thôi thì tiện dịp nhà đông đủ hãy kể rõ đầu đuôi ra sao, để ba má còn bước
tới cưới hỏi cho…
Anh
Ba tôi đang hớp nước, nghe má phát ngôn giựt mình đánh độp thiếu điều phun nước
ra ngoài. Không ai bảo ai, cả nhà từ ba đến tôi đều nhìn chằm chặp anh, đợi
đương sự lên tiếng trả lời? Anh ném con mắt không chút thiện cảm nhìn cô em gái
út mà anh đã hết lòng hết dạ gởi gắm tâm sự, không ngờ lại bị nó phản bội…
Nhìn anh tôi cười cầu tài, lên tiếng yếu
xìu như kẻ phạm tội:
- Anh Ba đã dặn con đừng cho ai trong gia đình
biết, đợi chừng nào anh đi rồi mới được nói với má. Nhưng anh Ba à, đây là tin
vui mà nhà mình ai cũng mong đợi. Đừng để họ chờ nữa, nên em mới nói với má ráo
trọi trơn dùm anh rồi… Thôi thì anh cũng mở lòng cho mọi người biết đi anh Ba…
Thế
là nhà chúng tôi chiều hôm đó mọi người vui như Tết. Kẻ nói nầy, người nói nọ
chung quy cũng là đôn đốc, bàn tính chuyện vui sắp tới của anh Ba. Riêng tôi đến
ôm vai ông anh hiền lành dễ thương của mình cười tươi như hoa nở mùa xuân, hàm
ý xin tha thứ:
-
Anh Ba thấy chưa, đừng giận nghe, nhờ em mạnh dạn nói mà chắc là anh sẽ
cưới cô ta sớm hơn dự định chậm như con rùa của anh. Vậy thì lần sau đưa cô ta
về ra mắt gia đình cho ba má và các em biết mặt…
Anh
Ba gỡ tay tôi ra mỉm cười rồi mắng át:
- Con nhỏ nầy không có gì giữ trong bụng lâu
được! Đưa về ra mắt cái gì, người ta là con gái quê, đằm thắm nết na, ý tứ chớ
có lét chét như em hoặc như cục đá muốn bưng đi đâu thì bưng sao. Người ta là
con gái, còn gia đình cha mẹ cô ta nữa… Nhứt là chuyện trọng đại đến người lớn
và cuộc đời của người ta…
- Đó, đó ba má nghe đó… chưa chi mà anh Ba đã
binh chị ấy rồi… Thiệt là làm ơn mắc oán mà…
Ba tôi uống ngụm trà, cười bảo:
- Em Hương nói đúng đó
con, vì ba má, vợ chồng thằng Hiền, vợ chồng con Hạnh cả con Hương nữa cũng muốn
con đưa cô ấy về thăm, cho mọi người biết mặt…
- Hương nói đúng đó anh Ba, thời buổi nầy khác
xưa như hồi ba má mình rồi. Cưới nhau đến rước dâu về vợ mới biết mặt chồng.
Bây giờ tiến bộ, người ta đã lên đến cung trăng, phụ nữ các nước đã nắm nhiều
chức vị quan trọng trong Chánh quyền như nam giới rồi. Đất nước ta cũng có trường
nữ quân nhân, và học sinh nữ cũng tập bắn súng… “Giặc đến nhà, đàn bà cũng
đánh” nam nữ bình quyền rồi. Bộ chỉ có đàn ông con trai mới đánh giặc cứu nước
thôi sao? Phụ nữ cũng được mà…
Lại cũng bà Hoàng Yến tài lanh, nhưng
chí lý… Khổ nỗi ba má tui thì không nghĩ như chị đâu nghe, họ vẫn còn tồn cổ lắm!
Mọi người trong gia đình hết sức vui vẻ, nói cười rộn rã nhứt là anh Ba tôi là
nhân vật chánh, là đầu câu chuyện tối nay. Nhưng tôi thấy má có vẻ trầm ngâm,
tư lự không vui vẻ trọn vẹn như mọi người!
Gió nhẹ đùa qua cửa sổ, tấm màn bằng
voan mỏng bay lên rồi hạ xuống, bên ngoài bầu trời tối thui, phố xá đã lên đèn.
Những cột đá hai bên đường lạnh lùng cao nghều nghệu, mắc những bóng đèn điện tỏa
ánh sáng vàng võ. Đám côn trùng (con thiêu thân) nhỏ bay loanh quanh rồi chết lịm
trên mặt đường lẫn vào cát bụi. Bữa tiệc nào rồi cũng tàn, các anh chị tôi vui
vẻ ra về, để qua đêm nay mọi người trên thế gian nầy sẽ đón thêm một ngày mới!
Hôm sau, vào chiều chỉ có ba má và tôi dùng cơm. Trên bàn ăn má đem chuyện anh
Ba ra kể cho ba tôi nghe lần nữa, có lẽ bà muốn nhắc khéo và hỏi ý kiến xem ông
nghĩ sao?
Ba tôi lắng nghe xong chuyện, rồi ung
dung bảo:
- Chắc ăn nhứt là bà xuống dưới thăm con, tiện
dịp thấy mặt người con mình thương muốn kết hôn. Thằng Hiếu đã có tuổi, bà ngoại,
bà nội, và cả bà cũng đã tìm người giới thiệu cho nó nhiều cô rồi, nhưng có
xong đâu? Duyên nợ trời ban mà, cứ kén chọn hoài sẽ không đi đến đâu … Thôi thì
hôm nào bà xuống thăm nó đi, đừng dự phần tôi. Con nó thương, bà nhận xét thấy
được thì được rồi. Tôi biết chung quy là bà cũng chỉ lo tốt cho con. Nhưng thời
buổi nầy đã thay đổi, phải mở rộng tấm lòng một chút, đừng khắt khe để cho con
mình được vui vẻ hạnh phúc bà à…
Không
trả lời ba, quay qua tôi má lên tiếng:
- Vậy cuối tuần nầy con đi với má xuống thăm
anh Ba nghe…
Tôi
lén nhìn ba như dò ý gấp quá của má… Nhưng ông tỉnh bơ và cơm vào miệng, ăn uống
một cách thống khoái.
Tôi khẽ gật đầu:
- Sáng đi sớm chiều về
nghe má. Vì tuần tới con bù đầu vì phải học bài thi…
Má
tôi cười:
-
Ờ, thì sáng đi chiều về chớ ở dưới làm chi! Anh Ba bây ở nhà trọ, ăn
cơm tháng thì mẹ con mình có chỗ đâu mà ngủ lại đêm… Vả lại để ba ở nhà một
mình sẽ buồn tội nghiệp!
Tôi
vỗ tay đôm đốp cười hô hố chọc ghẹo ông bà già:
-
Thấy chưa! Xa ba chỉ một ngày mà má bảo sẽ buồn nhớ ba da diết, tha thiết,
hết biết… Rồi má khóc hu hu không có sẵn lu để đựng nước mắt nữa đó ba…
Đôi
mắt hiền nhìn đứa con gái út hay phá phách của mình, ba tôi cười lắc đầu chớ
không nói gì. Còn má cười hạnh phúc, tiện tay quơ cái gối gần đó chọi tôi: “Con
nhỏ nầy thiệt là lắm mồm mép…” rồi bỏ lên nhà trên.
Thứ bảy tuần đó, chuyến xe lô Minh
Chánh chạy Sài Gòn- Mỹ Tho mới năm giờ sáng, đã có hai hành khách áo lạnh khăn,
nón tuơm tất, ngồi co ro ở băng nhứt rồi. Lác đác cũng có người lên xe, rồi
không lâu hành khách đầy chỗ, và chuyến xe sớm nhứt bắt đầu rời bến.
Ra khỏi thành phố thì tôi cảm thấy lạnh
hơn, má cũng kéo khăn choàng bằng len, che kín qua đầu hai tai và quấn mấy vòng
theo cổ. Thường mỗi lần ra khỏi nhà như đi chùa, thăm bạn bịnh, qua nhà gặp sui
gia ăn uống thì má tôi thường mặc áo dài, thậm chí có khi đi chợ.
Hôm nay đi xa xem mắt con dâu tương
lai, má tôi ăn mặc đẹp hơn. Bà mặc chiếc áo dài màu cà-phê sữa nhạt có thêu hoa
cúc nhỏ bằng ngón tay cái màu vàng và lá xanh, tóc má bới kiểu Lèo sau ót trên
cao. Tôi chưa bao giờ thấy má dùng son phấn, nhưng nước da bà trắng mịn màng nổi
bật đôi mắt tròn đen trong kiếng trắng có gọng ngời ánh vàng. Tạo cho bà thêm vẻ
đầm thấm cao sang nhưng không kém phần nghiêm khắc. Đó là phong thái của một phụ
nữ trung niên, thuộc gia đình có miếng ăn miếng để thời bấy giờ ở thị thành. Mặc
dù ba tôi không phải là người làm quan cao, chức lớn, nhưng tư cách, lời nói,
dáng điệu của má tôi lúc nào cũng khiến cho đối phương vừa nể sợ, vừa quý mến!
Nên trước mặt bà, thường không ai dám nói năng bừa bãi như: nói láo, nói trây,
nói tiếu, nhiều chuyện… Nhưng không vì thế mà má tôi kênh kiệu, tỏ vẻ khinh khi
người thất bại, yếu thế, mà bà lại thông cảm thường giúp đỡ khi họ gặp cơn ương
yếu, túng quẫn…
Thỉnh thoảng ngày rằm lễ lớn một năm
đôi ba lần bà cũng đến chùa cúng bái cầu an... chớ không đi thường xuyên. Má
tôi thường bảo với các con của bà: “Má thích làm việc thiện hơn tụng kinh...”
Ngọn
gió đồng thổi mát lạnh bởi còn đọng hơi sương. Trên những đám ruộng nối tiếp và
chia ra của từng chủ, bởi những bờ mẫu ngắn dài ngoằn ngoèo chạy xa tít tận
chân vườn… Xa xa lẫn lộn trong đám ruộng những bảng được dựng cao nghều nghệu
quảng cáo của hãng xe lam-bết-ta, máy để gắn xuồng đuôi tôm, hãng gạch, giầy
Bata, xăng Shell, vỏ xe hơi, dầu cù là Mc-su, dầu Khuynh Diệp bá sĩ Tín... Chờn
vờn khói trên mái lá, mái tranh... của những nhà nấu cơm sớm trước khi ra đồng.
Mặt trời chưa ló dạng đã có những nông phu rải rác đắp bờ, nhổ cỏ, vô phân trên
đồng ruộng… Xe vẫn chạy vùn vụt, gió tuôn ào ạt vào cửa sổ. Thỉnh thoảng nghe
chú lơ tay đánh thùng thùng vào hông xe, miệng gào thét “dô, dô” Khi thì lớn tiếng
hỏi hành khách bên lề đường “đi đâu, đi đâu…?” Xe ngừng ai lên xuống mặc ai,
khách đường xa vẫn người ngủ gà ngủ gật. Tôi thấy có động tác mà hình như mọi
hành khách trên xe đều giống nhau, đó là hai tay họ luôn khoanh lại trước ngực
như để giữ hơi ấm…
Ở phương đông vầng hồng lên chiếu ánh
sáng rực rỡ ửng nhiều màu sắc thắm tươi. Xe qua cầu Long An, dòng nước sông Vàm
Cỏ lững lờ xuôi chảy, và xuồng ghe qua lại nhẹ nhàng lướt đi trên sóng. Các
hàng quán thức ăn, nước uống hai bên đường bán cho xe đã mở cửa sẵn sàng đón
khách ngừng lại ăn, hay mua đem theo...
Xe đậu sát mái che chờm ra lộ bằng
ni-long sọc lớn màu vàng xanh sắc sặc sỡ… Bên trong có người bán lớn tiếng hỏi
vọng ra: “Trên xe có ai cần chi, cà-phê, bánh mì, bánh tét, bánh ít còn nóng hổi
vừa thổi vừa ăn đây…” Hành khách chồm qua cửa sổ gọi vói, kẻ mua xôi,
người mua bánh mì thịt, bánh tét, hay bánh ú treo lủng lẳng trên sào ngang cửa
sổ rộng…
Biết con gái khoái bánh ít ngọt nhưn đậu
trộn nước cốt dừa, nhưng bà không lên tiếng nên cô cũng nín khe…
Bỗng bà má nhẹ giọng thì thầm đủ cho
con nghe:
-
Để xuống tới nơi bảo thằng Hiếu mời cô ta ra tiệm ăn sáng, rồi sau đó đến
công viên Dân Chủ, hay đi dạo ngoài vườn hoa Lạc Hồng ở bến sông để có chỗ và
thời giờ nói chuyện. Chớ không hẹn trước làm sao mà đến nhà thăm và nghe đâu cổ
đang ở chung với cậu mợ thì phải? Việc chưa đến đâu, nên má không muốn làm phiền
người ta…
Tôi nghĩ, mẹ mình thiệt hết sức tế nhị,
hôm nay bà đi coi mắt lén con gái người ta. Chừng nào xong mới hẹn và bước đến
để người lớn nói chuyện quan trọng với nhau. Mẹ con tôi đến trước nhà trọ anh
Hiếu bằng xích lô. Xe vừa thắng trước nhà thì thấy anh ăn mặc tưom tất mở cửa
bước ra. Giựt mình thấy mẹ và em gái chưa tới tám giờ sáng, không hẹn trước mà
đã đến.
Má tôi cười tươi vui vẻ hỏi quý tử của
mình:
-
Thấy má xuống thăm bộ không mừng sao, mà con đứng tần ngần, chăm bẳm mà
ngó vậy?
Anh
Ba tôi qua phút ngạc nhiên, cười tươi bảo:
-
Mấy khi má đi thăm con mừng lắm chớ, nhưng cũng bất ngờ và ngạc nhiên
vì không có ba cùng đi, mà chỉ có Hương thôi.
Hương sợ anh mình trách về tại sao má xuống bất ngờ, cô phân
bua:
- Đừng có tính em vô
nghe, con nầy “ngây thơ vô số tội”, và chỉ là kẻ đồng hành bất đắc dĩ đưa đường
dẫn lối thôi… Sáng sớm anh sửa soạn đi đâu mà ăn mặc bảnh tẻn quá vậy? Hôm nay
má xuống thăm anh và muốn gặp người đẹp là chị Thu Hồng của anh đó…
Anh Ba tôi hơi khựng, nhưng bảo:
- Hương nói có đúng không
má, vậy thì má và em vào nhà uống nước… Con sẽ đi đón Thu Hồng, phải má và em đến
trể một chút là huốt rồi, vì con hứa đến đưa Thu Hồng về quê thăm gia đình cổ.
- Con lên nhà ba má nó à?
- Dạ không, con chỉ đưa cổ ra bến xe thôi.
Anh Ba tôi ở trọ, trong ngôi nhà ngói
xưa bên hông vách tường cũ, mái ngói rêu
phong. Nhà nằm trong vuông đất rộng có đôi ba cây ăn trái dễ trồng như: cam,
chanh, mận, quít… và mấy bụi bông trang, bông bụp màu vàng nghệ chen lẫn trong
các cành lá xanh um mượt mà. Nghe đâu ngôi nhà xưa nầy của ông Phán kho bạc, để
lại cho đứa con trai lớn đang làm ở Ty Tiểu Học đã hưu trí… Con cái của họ lớn
hết rồi, nên đi làm xa. Hai ông bà già ngăn cho những người độc thân mướn ở tắm
rửa ngủ nghê chớ không cho nấu nướng, cho nên chỉ có nhà tắm, cầu tiêu chớ
không bếp để nấu.
Phòng
anh Ba tôi ở trọ hết sức đơn giản, cái giường nhỏ, cái bàn viết nhỏ đặt sát cửa
sổ kế bên cửa lớn ra vào hai cái ghế chỗ máng mấy quần áo lính, và thường phục,
khăn tắm... Má ngồi trên ghế kế bàn, còn tôi ngồi trên giường anh, mền chiếu gối
cũ nhưng được xếp ngăn nắp sạch sẽ.
Chúng tôi chờ anh Ba chở “bóng hồng Đồng
Tháp” của ảnh đến để mẹ con tôi được thấy dung nhan. Ngoài đường phố nhiều xe
qua lại, cây mận trong hàng rào đã có nhiều chùm trái đã ra da (gần ăn được) và
những chùm hoa nở trắng xóa quyến rũ, đám ong bầu ù ù ve ve bay quanh tìm mật.
Anh Ba chạy xe gắn máy vừa quẹo vào dựng
trước cửa, thì chiếc xe xích lô trờ tới dừng lại, người phụ nữ xuống xe. Anh Ba
đi ra, người đẹp của anh chậm chạp e ngại theo sau anh bước vào.
Trước mặt tôi là một phụ nữ cao vừa tầm,
mình tròn triạ không ốm gầy cũng không lùn tẹt. Chị có khuôn mặt điềm đạm hình
trái soan, nước da trắng, tóc dài xõa về phía sau. Đôi mắt to trong sáng với bờ
mi cong, mũi thon cao, miệng nhỏ. Chị mặc áo bà ba màu tím than, quần sa-teng
tuyết nhung mướt rượt như vừa nhúng vào dầu dừa, và mang đôi dép thấp có hai
quai tréo. Nếu anh Ba không nói trước thì tôi không thể nào biết chị sanh ra và
lớn lên ở vùng Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như
bánh canh”. Cái vùng trong sách vở thì ít mà bên ngoài tiếng đồn thì mười, thì
trăm lần hơn. Nơi nổi tiếng đồng ruộng bao la nhiều đến nỗi “cò bay thẳng cánh/
Chó chạy cong đuôi” và bị ngập suốt mùa nước lên sáu bảy tháng trời...
Chị Thu Hồng hạ thấp đầu lễ phép lí
nhí trong cổ họng chào má, rồi quay sang chào tôi, sau khi chúng tôi được anh
Ba giới thiệu. Giọng nói chị nhẹ nhàng tươi mát và chân tình nhưng như người ta
thường nói “mặt như lòng” hễ mặt mày sáng sủa thì lòng dạ ngay thẳng rộng rãi
vui vẻ…
- Đó là tất cả nhận xet của con về cô bạn anh
Hiếu đó ba.
Tôi đang múa tay, đá chân, liếc mắt thật
sống động diễn tả về chị Thu Hồng… Nảy giờ ba tôi ngồi đó vừa ăn vừa gật gù có vẻ
hài lòng khi nghe con gái út “thiệu” (kể, tả) về cô dâu cả trong tương lai của
ông. Hôm nay nhà đông đủ đang ngồi ăn cơm chiều, sau khi tôi với má đi xem mắt
người đẹp của anh Ba về.
Anh Ba tôi bên ngoài làm bộ tỉnh bơ ngồi
ăn uống như thường, như không thèm để ý đến con em đang kể về người đẹp của
anh. Nhưng tôi biết trong bụng anh thì thầm cảm ơn con nhỏ nầy và khoái chí thấy
bà!
Chợt chị Hạnh ngừng ăn nhìn tôi cười
cười:
- Ê, bộ chỉ hối lộ cho mầy chút ít tiền ăn quà
rồi sao, mà tự nãy giờ mầy tả về bả y như mấy cô hoa khôi miền Tây vậy mậy?
Không
mất phần, bà chị dâu Hoàng Yến lanh chanh cái miệng:
- Ồ, như vậy thì chị ấy đẹp quá rồi, anh Ba
thiệt khéo chọn đó nghe. Nhưng tại sao má lại gọi chỉ là “Con Đồng Tháp”…
Lúc chưa nghe Út Hương kể, tôi tưởng tượng chỉ là cô gái quê mùa, thô lỗ vì
quanh năm chầm nghịch ở ruộng, ở đồng có “mình hạc xương cối đạp” đen đúa xấu
xí lắm chớ, ai dẻ chị ấy đẹp quá chừng đi thôi! Bộ chỉ còn có cái tên cúng cơm
là Con Đồng Tháp nữa sao cô Út?
Cả
nhà cười rộ lên, anh Ba tôi cười sặc phun cơm ra ngoài. Ba ngưng cười, quay
sang chị dâu tôi vui vẻ bảo:
- Con Tư không biết đâu, má chồng bây hay đặt
cho người ta thêm cái tên lắm. Như lúc thằng Tư mới quen bây, bả cũng gọi bây
là con “Con Rau Muống” vậy! Ba nghĩ bả đặt cho bạn gái của thằng Hiếu là “Con Đồng
Tháp” là “Con Giá Sống” mới đúng, nhưng có lẽ Đồng Tháp nổi tiếng hơn nên bả đặt
cho con nhỏ cái tên Đồng Tháp… Có phải vậy không bà? Nhưng theo tôi thì sao
cũng được, đẹp hay không bây giờ là giữa hai đứa nó thôi. Mình chỉ chọn người nết
na, hiền ngoan trong một gia đình đạo đức đàng hoàng là được. Bởi ông bà ta
cũng đã nói: “Mua heo chọn nái/ Cưới gái chọn dòng” đó mà…
Má
tôi cười lém lỉnh nhìn ba:
- Thiệt không ai hiểu má
hơn ba bây. Nói tóm lại con Đồng Tháp trông lành gái, có tướng phúc hậu. Gia cảnh
họ hàng cũng không tệ, mặc dù nó sanh ra nơi đồng khô cỏ cháy, làm ra tiền chớ
không có chỗ để tiêu xài… Người ta nói “Nhà đất có ông Phật vàng” ba má nó khá
lắm, còn có người cậu làm Phó Ty Điền Địa ở Mỹ Tho, mà nó đang ở đó đi làm. Ông
chú ruột làm quận Trưởng ở quận Bình Minh thuộc tỉnh Cần Thơ. Con Đồng Tháp là
con út, có ba anh lớn, nhà chỉ có nó là con gái nên gia đình cưng chiều hết mực.
Bởi vì cha mẹ không muốn nó sống trong đồng ruộng, nên cho con ra thành học
xong trung học Đệ nhất cấp thì đi làm… Gia đình ba má nó có mấy ghe chài do mấy
thằng con lớn coi sóc thợ thầy, chở cá đồng, tôm… bỏ mối ở miệt Hậu Giang. Họ
có tiền, nhưng không muốn con dầm sương dãi nắng, quần vo áo vận tối ngày như
các cô thôn nữ, nên cho con ra thành mong sau nầy có được người chồng ở thành
thị cho khỏe tấm thân…
Ba
tôi cười hiền, xuề xòa:
- Mẹ con bà tính sao cũng được, miễn cưới được
đứa con dâu biết lo thương chồng, có lễ nghĩa, tử tế biết người trên kẻ dưới lo
cho gia đình… con mình sẽ hạnh phúc. Tôi mong nó được bằng phân nửa của bà lo
cho cha con tôi và cái gia đình nầy là tôi mãn nguyện lắm rồi… Chớ tôi không
mong ước nó giàu sang hoặc phú quý gì cả. Học rộng hiểu nhiều mà vô phép vô
thiên coi chồng không ra gì thì chẳng tốt lành chi…
Má
tôi nhìn ba cảm động chớp chớp mắt bùi ngùi biết ơn! Còn đám con “vô duyên
không tiền thưởng” cười hô hố lấy đũa gõ vào ly, vào chén rồi vỗ tay đôm đốp chọc
quê ba mẹ mình.
Anh Tư lớn họng:
- Ba nịnh đầm thiệt hay, nhưng con thật vô dụng
không lãnh ngộ được chút nào điểm đó ở ba cả… nên vợ con thường hay chê con lù
đù như củ khoai sùng!
Chồng
chị Hạnh cũng xen vào:
- Ba khéo quá, thiệt tuyệt vời“gừng càng già
càng cay” Vậy từ rày bọn mình sẽ có những bữa cơm gia đình ngon do má đãi dài
dài… Và Hạnh khi giận lên nàng cũng thường chê bai và gọi em là trứng vịt thúi
đó sao!
Chị
Hạnh tôi cười ngất ngất, hấy yêu chồng:
- Giỏi tài ham ăn, chớ gì nữa từ hồi vợ chồng
cưới nhau đến giờ tui có nghe ông nói câu nào bùi tai tui đâu nà…
Chị Hoàng Yến cười lớn:
-
Trời ơi, sao giống quá vậy, tui cũng chẳng hơn gì cô đâu. Cha chả thiệt
chịu hết nổi mà, cô biết không, bởi ông chồng mình dành lời ngon tiếng ngọt bùi
tai thiên hạ để “dê” chớ không dành cho vợ…
Cả nhà chuyện trò vui vẻ cười như bắp
rang. Tôi nghĩ chắc kiếp trước mình có tu, nên kiếp nầy được sanh ra và lớn lên
trong gia đình đủ ăn, đủ mặc, vui vẻ, hạnh phúc tràn trề…
Trong khi đó ở ngoại ô, ngoài biên trấn
giặc giã ngày càng sôi động. Giặc lén về gây biết bao nhiêu khốn khổ thương tật
cho dân lành… Trai đến tuổi thì đi quân dịch, Chánh phủ kêu gọi thanh niên nhập
ngũ tùng chinh, tái ngũ… Rồi những bài hát do nhạc sĩ sáng tác ca ngợi chiến
binh oai hùng, khơi động lòng yêu nước ào ạt được trình làng, như bài: “Bức Tâm
Thư” với lời lẽ ngọt ngào thương mến “…Vài hàng gởi anh trìu mến/ Vừa rồi làng
có truyền tin/ Bảo rằng nước non đang mong/ Đi quân dịch là thương nòi giống…” Rồi bài: “Trăng Rụng Xuống Cầu/ Chiều Mưa
Biên Giới/ Tình Anh Lính Chiến…” Phái nữ tình nguyện vào các ngành nghề mà ngày
xưa chỉ cho nam phái như là: Nữ quân nhân (có nhiều ngành), nữ Biên Tập Viên Cảnh
Sát Quốc Gia, Quốc Gia hành Chánh, Xã hội…
Cuối năm năm đó, ba má tôi cậy người
mai mối đi cưới “Con Đồng Tháp” Thu Hồng cho anh Hiếu. Ba má của chị Đồng Tháp rất
vui mừng có sui gia ở thành thị, và nhứt là có được thằng rể ngoan hiền như ý
muốn. Họ không đòi hỏi gì nhiều, và cho nhà trai đến rước dâu ở Mỹ Tho (nhà cậu
của chị) chiều đến hai họ được đãi ở nhà hàng Lê Lai ở đường Lê Lai gần chợ Bến
Thành.
Sau ngày cưới là hai tuần trăng mật của
anh chị. Còn một tuần phép trước khi trở lại đi làm, thì nhà gái có nhã ý mời họ
nhà trai đến nhà ba má ruột chị dâu tôi ở Đồng Tháp Mười cho biết nhà cửa…
Chuyến đi nhà sui gia nầy cũng chỉ có
má và tôi thôi. Cái tên Con Đồng Tháp là do má tôi đặt cho chị, tôi nghĩ bà có
một chút châm biếm, không vừa ý anh Ba tôi lấy con vợ ở vùng quê mùa dốt nát tận
Đồng Tháp Mười! Nhưng đến thăm nhà gái má tôi mãn nhãn vì sự giàu có ăn chắc mặc
dầy có lúa thiên, bạc vạn, tàu bè, ghe lớn ghe nhỏ… của đa số nông dân sống
trong vùng Đồng Tháp Mười. Nhiều nhà cao cửa rộng, mỗi người có mấy trăm mẫu ruộng,
tôm cá là của trời cho không vốn, chỉ siêng năng bắt chở đi bán, tiêu xài đã đời
còn dư mua vàng lá để dành. Còn những người không tranh đua, có nếp sống an phận,
tay làm hàm nhai thì no đủ quanh năm, sung sướng tâm hồn cả một đời…
Nhà của ba má chị Ba Đồng Tháp hai
ngăn ba chái, cất trên vuông đất đấp cao rộng hơn hai mẫu… Chung quanh nhà họ
trồng cam, quít, bưởi, mận, xoài cát đen, dừa… Các loại chuối nhứt là chuối sáp
nấu ăn dẻo và ngọt lắm. Để ngăn cho phân biệt đất nhà và hàng xóm bằng hàng rào
trồng toàn là tre gai, và mương đào chung quanh.
Chị Đồng Tháp sáng nào cũng hỏi:
-
Cô Út thích ăn cá, hay tôm và muốn làm món gì? Để nhờ hai bà thím nấu,
họ ở xóm trong, má tôi thường nhờ ra giúp khi nhà có tiệc tùng. Bởi hai bà đó nấu
ăn ngon lắm, cô đừng ngại nghe…
Chúng tôi đến thăm nói là bốn ngày chớ
thật ra có hai ngày thôi, vì phải mất hai ngày đi và về rồi. Ngày đầu ăn tôm
càng xanh nướng lửa trâm bầu cuốn với rau sống bánh tráng nhúng nước và thịt ba
chỉ xắt mỏng… Chiều ăn cháo ám cá lốc… Hôm sau ăn cá trê vàng cặp gấp tre nướng
dầm nước mắm gừng, ăn kèm với đọt rau lang luộc. Cá thác lác nạo thịt bỏ xương
vò viên nấu canh chua với bông điên điển, bông so đũa, bông súng, khóm, bạc hà,
giá sống… Bầu xào với chim chầm nghịch thiệt là ngọt vô cùng kể! Toàn là những
món ăn đồng quê, nhưng tôi ăn hoài, cái bụng no mà cái miệng vẫn muốn ăn thêm…
Ăn đến nỗi, má khều nhẹ tôi bảo nhỏ: “Thôi đủ rồi, coi chừng con ăn nhiều quá
cái bụng nổ tung bây giờ…” Tôi cười trừ mắc cỡ lỏn lẻn không trả lời.
Món cá heo kho tiêu bình dân ở địa
phương, tôi được ăn ở nhà chị Ba Đồng Tháp lúc mẹ con tôi đến thăm lần đó. Con
cá heo ở sông không lớn như cá heo bự tồ bà dền nặng mấy trăm ký như ở vủng biển
cả mênh mông. Ở đây con cá lớn nhứt bề ngang chỉ bằng ba ngón tay khép lại, dài
chừng một tấc. Cá heo da không có vẩy như cá lốc, cá rô mà da trơn tru như cá
trê cá ngác... Nhưng bộ da của cá heo đẹp, mình màu vàng tươi bóng loáng có sọc
ngang xanh sậm, đen, cá ít xương, chỉ một lằn xương sống dài từ đầu đến đuôi,
còn vi, kỳ thì mềm mại. Ở vùng quê người ta làm cá heo với tro bếp vuốt từ đầu
đến đuôi cho sạch sẽ nhớt, để ráo, rồi cho cá vào tay cầm bằng đất nung. Cá ướp
với nước mắm đồng, để tiêu cà, ớt khô xây nhuyễn, nước màu dừa, tép hành lá bầm
nhỏ và dằn thêm chút đường. Lúc kho cá phải để lửa riu riu cho thấm... đến khi
nước kho sền sệt thì bắt xuống ta thấy nước cá kho trong tay cầm còn sôi sùng sụt
thì rắc thêm tiêu cà.
Sáng sớm hôm đó trước khi xuống đò để
trở về nhà, má chị Hiếu đãi mẹ con tôi ăn món cá heo kho tiêu với cháo đậu đỏ
chan nước dừa bồng con! Ôi món ăn bình dân nầy sao mà bắt miệng vô cùng, tôi ăn
một chén cháo bự, rồi hai chén... cái bụng đã no cành mà cái miệng vẫn còn muốn
ăn thêm... Cho mãi đến sau nầy... tôi vẫn chưa ăn được lần thứ hai, nhưng dư vị
món cá heo kho tiêu ăn với cháo đậu đỏ của chị Ba Đồng Tháp vẫn còn nhớ mãi
trong tôi. Cá heo không tanh, ngọt thịt, mềm, thơm, béo như ăn thịt đuồi heo
kho rệu của người miền Nam vào dịp Tết Nguyên Đán.
Nồi ơi, ngày mẹ con tôi trở về nhà ông
bà sui gia tặng cho ba má tôi nào khô cá lốc, khô cá trạch, khô sặc con nào con
nấy bằng tay xòe... Cùng còn những thổ sản trong vùng như khoai lan dương ngọc,
khoai lan gạo, ngó sen, củ co... mới đào dưới ruộng đem lên. Hai mẹ con tôi mỗi
người hai giỏ đầy quà cáp thiệt là nặng muốn chết! Đem về thì vất vả quá phải
qua đò, lên xe... còn để lại thì tiếc, vì ở Sài gòn làm gì có những thứ tươi
ngon như thế nầy... và nhứt là không phải trả tiền nữa! Giấu nụ cười lí lắc về
ý nghĩ của mình và quên đi cái khờ dại làm dáng tiểu thơ... cho nên dù tay
xách, nách mang... tôi cũng không bỏ tật tham lam cộ hết đem về nhà!
Năm sau chị Ba Đồng Tháp sanh đứa con
trai đầu lòng, là cháu Hiếu Kiệt. Kể từ đó chị dâu tôi ở nhà trông chừng con
không đi làm nữa. Và ông bà ngoại cháu mua cho con rể ngôi nhà ngói khang
trang, vách tường có sân trước, vườn sau rộng rãi bên kia bờ giếng nước, đường
ra bến xe đò nằm dọc trên sông Bảo Định thành phố Mỹ Tho…
Khi cháu Hiếu Kiệt vừa bốn tuổi thì chị
Thu Hồng mang thai, sanh ra bé gái đặt tên Thu Hà. Cháu Thu Hà được thôi nôi
thì ba cháu cũng ra trường sĩ quan khóa đặc biệt được bổ sung về Sư đoàn 7 bộ
binh. Kể từ đó anh Hiếu chồng chị Ba Đồng Tháp là lính tác chiến. Nên anh rày
đây, mai đó đi khắp các quận làng trong tỉnh và liên tỉnh, thường thì ở miền đồng
bằng sông Cửu Long, và biên giới Việt Miên.
Người ta bảo thợ may ăn vải, thợ mộc
ăn cây, thợ hồ ăn cát, ăn xi-măng… Ba má tui có dâu và sui gia ở miệt Đồng Tháp
Mười, nên mỗi lần ba má chị có dịp đến thăm nhà chúng tôi, thì thường mang đến
tặng thủy sản thượng hảo hạng khi thì cá lốc, cá trê vàng, tôm càng xanh vỏ, cá
sặc lò tho… cá nầy mà kho mẳn vắt chanh thì ăn hết nồi hết ơ. Có khi các loại
khô ngon ngoài chợ hiếm thấy bán, để dành ăn quanh năm. Tết nhứt má của chị Đồng
Tháp còn gởi cho các loại bánh tráng, bánh phồng nếp bằng cái dĩa nhỏ, nướng
xong bánh nở bằng cái mâm thau. Cá tôm tươi, gà trống thiến, các loại trái cây
tươi phơi khô như là chuối cau khô, mít khô... “Có qua có lại mới toại lòng
nhau” má tôi đáp lễ với những hộp trà Tàu ngon, bánh hộp, cà-phê, đường cát trắng
thẻ vuông (loại nhập cảng) hồng khô, cam tàu, trái vải, nho tươi…
Thời gian lặng lẽ qua mau, ba má tôi
giờ tóc đã hoa râm. Sau khi ra trường học nghề, tôi về nhận nhiệm sở ở Mỹ Tho,
làm việc ngang Tổng Hành Dinh Sư Đoàn 7 ở bên kia đường, đối diện với công sở
tôi làm việc. Và năm sau đó tôi lập gia đình với một quân nhân sinh trưởng ở Bến
Tre, chàng là thượng cấp của anh Ba Hiếu tôi.
Nhân duyên của chúng tôi đơm hoa, kết
quả cũng nhờ lần đó về thăm nhà, má gởi đồ ăn cho anh Hiếu. Chỉ bước qua lộ là
đến nơi anh làm việc, mang quà đến lần nầy không gặp anh mà gặp chàng... và do
sự môi giới của ông anh mình. Năm sau chúng tôi thành hôn.
Giáng Sinh năm 1974, chúng tôi có hai
mặt con, trai 4 tuổi, gái 2 tuổi. Miền
Nam bị Cộng sản và tay sai Việt cộng cưỡng chiếm vào cuối tháng tư “Ngày 30
tháng 4 năm 1975”. Cùng chịu chung cảnh với quân, dân, cán, chánh, chồng tôi,
anh Hiếu, anh Hiền và vợ chồng chị Hạnh bị tập trung vào tù cải tạo mút chỉ cà
tha, không biết bao giờ mới được thả? Bởi họ bị kết tội là “Những tên ngụy quyền,
những tên lính Mỹ đánh thuê” trở thành những người tù không bản án!
Ba đứa con chị Hạnh bên nội đem về
nuôi dưỡng ở Bình Dương. Chị Tư Hiền lo cho ba đứa con, và luôn được sự bù đắp
của ông bà ngoại... Ba má tôi lo buồn cho thời cuộc, và sự an nguy của các con
nên đau bịnh rề rề. Còn con Ba Đồng Tháp của má rước ông bà về ở chung với mẹ
con chị, để hôm sớm có người lớn trong nhà trông chừng các cháu, để chị yên
lòng đi buôn bán kiếm sống cho gia đình, và thăm nuôi chồng.
Thiệt là một gánh nặng cho chị Ba Đồng
Tháp! Vì ba tôi không đi tù cải tạo là may mắn lắm rồi, chớ đâu còn lương hưu
trí nữa! Anh Ba Hiếu, anh Tư Hiền và vợ chồng chị Hạnh, chồng tôi vẫn kẹt trong
tù! Còn tôi thì đã mất việc vì liên hệ tội của chồng là “ngụy quân” nên phải ra
bươn chải đi bán chợ trời để nuôi con. Thỉnh thoảng có tiền mua cho cha mẹ con
cá, gói bánh... là hạnh phúc lắm rồi.
Mùa thu năm sau ngày giặc vào, ba tôi
vĩnh viễn lìa bỏ cõi đời trong cơn bạo bịnh. Ông chết phần lớn cũng vì lo lắng,
đau buồn, và tuổi già bịnh hoạn không đủ thuốc men, không làm ra tiền, lương
chình hưu bổng gì cũng bị mất hết… Thằng Hiếu Kiệt con lớn của anh chi Ba về
ngoại phụ buôn bán với mấy cậu, để có tiền phụ mẹ nuôi em, thăm nuôi cha và ông
bà nội!
Cả năm rồi không tin tức gì của thằng
con, và ba đứa cháu gọi chị Ba Đồng Tháp gọi tôi bằng cô ruột… Gia đình ủ rũ,
khổ sầu, chị dâu tôi ngậm đắng nuốt cay khóc thầm khóc lén, đớn đau như cắt ruột,
khi biết con mất tích trong lần đó lên Biển Hồ mua cá tôm về bán. Chị không dám
cho bà nội cháu biết, và cũng giấu nhẹm không cho chồng hay trong lúc thăm
nuôi... Đại gia đình của bà má tôi thiệt là “Họa vô đơn chí, phúc bất trùng
lai”
Tin chồng tôi bị chết trong tù! Nhìn mấy
đứa con nheo nhóc, mẹ và các chị dâu nghĩ tôi sẽ hóa điên! Chị Ba Đồng Tháp
khuyên đem các cháu về sống với chị và má, sau khi chúng cướp lấy nhà tôi để
làm văn phòng cho khu phố. Nỗi đau mất chồng, mất nhà cửa, mất người thân, mất
quê hương tôi đã khóc… khóc tưởng chừng mình không còn nước mắt để khóc nữa!
Việt cộng dẫn đầu Cộng sản Tàu tràn
vào cướp miền Nam. Người từ Bến Hải đến Cà Mau, cũng như ba má chúng tôi cửa
nát nhà tan, gia đình ly tán! Nỗi đau buồn hờn oán bọn Việt cộng chỉ phú cho trời
cao! Tội nghiệp chị Ba Đồng Tháp vất vả bán buôn lo cơm áo cho mẹ chồng, cho
con còn cưu mang thêm mấy mẹ con chúng tôi, và cố nuốt nỗi đau thương về cháu
Hiếu Kiệt biệt tích cho đến nay…
Nắng bình minh lên vội sáng trưng xoá
nhạt nhòa và phai dần sương mù giăng giăng trên mặt nước sông. Dưới nền trời
xanh biếc, không gian trong như lọc cây mận hồng đào sau nhà trĩu quằn nhánh...
kế cây cam, cây chánh giấy bông nở trắng xóa, hương hoa dìu dịu ngọt ngào bay tỏa
quanh nhà. Hai con chim khách cứ líu lo bay lượn trước cống, ngoài sân... Thiên
nhiên êm đềm của buổi sáng len lén đi vào hồn người. Chị Ba Đồng Tháp như hồi
sinh trở sau thời gian dài đau đớn bặt tin con...
Tin về: “Cháu Hiếu Kiệt và ba đứa cháu
của chị Ba Đồng Tháp đã vào được nước Mỹ...” Tạ ơn Trời Phật, thiệt là
một “tin mừng lớn” đến với đại gia đình chúng tôi!
Chị ba Hiếu mấy cháu, má và mẹ con tôi
sống hẩm hút với nhau được đâu hơn ba năm, thì anh Ba Hiếu được thả về! Khi có
chương trình cựu tù nhân Chánh trị tù bị cải tạo trên ba năm thì được đi Mỹ
theo diện H.O.
Anh chị Hiếu tôi mấy năm sau bồng bế
ba đứa con qua Mỹ, sanh sống ở tiểu bang Arizona. Đó là vùng sa mạc nắng cháy,
mưa dầu... suốt mùa hè cỏ cây xao xác trơ cành trụi lá! Mẹ con chị Tư Hiền cùng
gia đình bên ngoại mấy cháu vượt biên qua được nước Úc. Anh Tư bị tù cải tạo,
khi được thả về, cũng đi qua Úc theo diện bảo lãnh của vợ. Rồi anh chị Hạnh tôi
cũng đi theo diện H.O ở Michigan. Trong hình gởi về, cái nơi gì mà tuyết phủ một
năm gần sáu tháng. Lạnh thấu trời thấu đất ở gần biên giới sát nách nước
Canada.
Kẹt
lại quê nhà khốn khổ giờ chỉ còn má, và ba mẹ con tôi! Nhưng cuộc sống của gia
đình mẹ góa con côi của chúng tôi khấm khá hơn trước nhiều lắm. Đó là nhờ vợ chồng
chị Ba Đồng Tháp và các anh chị gởi tiền về phụng dưỡng má, và luôn kèm theo
cho thêm đứa em bất hạnh nầy... nên mẹ con tôi được nhờ…
Đôi lúc tôi thẫn thờ nhớ về thuở thanh
xuân hạnh phúc, sung sướng vào thời Việt Nam Cộng Hòa! Rồi nghĩ đến đang sống vật vã ở chế độ Cộng Sản,
tôi cảm thấy lòng đớn đau và buồn thấm thía! Đôi lúc nhìn hai đứa con đã lớn đại,
còn trong tuổi học hành và tôi cũng biết trước là tương lai chúng mịt mờ, bởi
lý lịch không tốt của cha là “ngụy quân”. Tôi thèm muốn và ước gia đình đến một
nước tự do như những người khác... Nhưng đối với mẹ con tôi là một việc khó hơn
lên trời... vì đó chỉ là một giấc mơ không bao giờ thành tựu ở kiếp nầy! Chép
miệng thở dài, nghĩ đến đâu tôi càng chán nản đến đó, và tuyệt vọng vô cùng!
Nhưng tôi âm thầm mong đợi có một ngày! Phải, có một ngày việc gì đến sẽ đến,
không ai có thể biết trước được! Tôi luôn hy vọng... dù biết rằng đó là ý nghĩ
tự dối mình... Bởi trong cuộc sống hàng ngày phải có hy vọng, có hy vọng tôi mới
kiên trì mà sống nổi!
Trên bàn ăn hôm nay, có đủ mặt anh chị
ở tiểu bang khác như vợ chồng chị Hạnh Michigan, anh chị Tư Hiền ở tận phương
trời nước Úc xa hơn nửa vòng trái đất cũng bay qua. Còn anh chị Ba Hiếu ở gần
sát bên nách, khoảng mười lăm phút lái xe, nên đến lúc nào mà không được.
Má tôi lấy khăn lau nước mắt cảm động
vì các con về thăm đầy đủ trong ngày cúng giỗ chồng bà, và ở lại ăn Tết Nguyên
Đán mẹ con sum vầy ra giêng ai mới về nhà nấy... Nhìn các con, mới ngày nào còn
giỡn chạy loanh quanh bên cha mẹ, mà nay đứa nào tóc cũng muối tiêu hết. Có đứa
bây giờ cũng đã là ông bà ngoại, hoặc nội, và bà cũng đã lên chức bà cố rồi…
Không chịu nhuộm, nên tóc má tôi trắng
như bông gòn. Cứ mỗi sáng đẹp trời má thường ra sân trước cắt tỉa những nhánh hồng
nhung trồng nơi cửa sổ, và cạnh ranh đất hai bên nhà hàng xóm. Những bụi hồng
có hoa màu tím, trắng, đỏ, vàng nghệ… nhờ má chăm sóc nên bông nở quanh năm.
Theo gió len qua cửa sổ hương hoa dìu dịu ngào ngạt loan tỏa khắp căn nhà.
Hàng ngày má tôi ra miếng vườn chó
ngáp phía sau, mà anh Ba đã bỏ công ra xới đất lên liếp, làm giàn, thay đất, vô
phân… Để má tôi có công việc làm như trồng trọt, nhổ cỏ, tưới nước... tới mùa cắt
bầu, bí… lớp ăn. lớp cho hàng xóm, cho chùa... Bà luôn săm soi bắt sâu, tỉa lá:
đậu, cải, rau nấu canh mỗi thứ một ít. Trong chậu sành bà trồng các loại rau
thơm như: dấp cá, húng cây, húng nhũi, quế, ranh giới, hẹ, hành hương… có ăn
quanh năm, không phải mất công ra chợ và tốn tiền mua.
Có lẽ nhờ thường xuyên vận động, nên ở
tuổi tám mươi rồi mà má chúng tôi sức khỏe vẫn còn tốt. Bà ăn ngủ bình thường,
da dẻ hồng hào, mặt mày tươi tỉnh hơn những người cùng tuổi. Và nhứt là trí nhớ
của má tôi rất là “bảo đảm”, chuyện gì mấy mươi năm trước, những tưởng theo
dòng thời gian không còn tồn tại trong tâm trí nữa. Nhưng không đâu, bà vẫn nhớ,
và nhớ rất rõ mọi thứ, mọi việc li chi…
Hôm nay các con về đủ mặt, sau khi
cúng rước ông bà trước ngày mùng một Tết, như lúc chồng còn sinh thời. Bởi mẹ
con tôi và má đến Mỹ cả năm rồi, anh chị ở xa đến nay mới sắp xếp công việc gia
đình để qua thăm trong dịp cúng giỗ ba và ở lại ăn Tết với má. Ngồi vòng theo
bàn tròn bên mâm cơm, má và anh chị em chúng tôi nói cười vui vẻ, kẻ kể chuyện
nọ, người kể chuyện kia…
Mỗi lần má tôi lên tiếng góp chuyện,
thì chúng tôi đôi mắt sáng ngời, miệng cười chum chím lắng nghe từng lời, theo
dõi từng cử chỉ của bà.
Má tôi nét mặt hạnh phúc tươi vui hớp
ngụm nước trà, rồi ôn tồn bảo:
-
Cái ngày được tin tụi bây đến xứ người an bình, rồi có công ăn việc
làm, các cháu đi học, má thiệt vui mừng vô cùng! Nhưng mỗi ngày như mọi ngày, đến
giờ người phát thư đi qua thì má ra đứng, hoặc ngồi chờ sẵn xem có tin thư gì
bây gởi về không? Trong lúc chờ má thường nghe bọn trẻ con hàng xóm đùa
giỡn, chúng còn ca hát nghêu ngao những câu vè, những câu thơ, lời hát châm biếm
trong dân gian, thật là thấm thía “Như có bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán/ Vừa
bước ra thì bị xe cán bể đầu/ Bao nhiêu năm cướp ruộng đất cướp trâu/ Xác xình
thúi đã rụng hết tóc râu …” dù má không học nhưng nghe riết rồi cũng thuộc lòng…
Anh em tôi cười rộ, kẻ ăn người uống...
trong hoàn cảnh gia đình bao nhiêu năm đoàn tựu mới được đoàn tựu nên tâm hồn mọi
người thoải mái, vui vẻ và chăm chú ngồi nghe má kể tiếp:
“…Ngày đi đảng gọi Việt Gian/ Trở về đảng
lại chuyển sang Việt Kiều/ Chưa đi “phản động” trăm chiều/ Đi rồi thành “khúc
ruột yêu ngàn trùng/ Trốn đi đảng bắt đến cùng/ Trở về mời gọi săn lùng đô la
…………………………”
Má tôi nói đến đó có vẻ bùi ngùi buồn
thương về thời son trẻ lúc chồng còn đi làm việc… bà thở dài, tiếp:
-
Thiệt Cộng sản, Việt cộng là bọn tráo trở mặt dầy không biết ngượng,
không ra thể thống gì hết! Má thấy thương tiếc cái thời Cộng Hòa, lúc tụi bây
đi học, rồi đi làm. Thật thuở đó người dân Việt ở miền Nam sống trong an vui, hạnh
phúc vô cùng. Bây giờ cái bọn giặc ác ôn hết nói nổi, cho nên mấy đứa con nít
cũng chưởi bới chúng. Ông cha thường bảo: “Trăm năm bia đá thì mòn/ Ngàn năm
bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Ngoài đường nơi nào, lúc nào cũng nghe mấy đứa nhỏ
hát vang rân: “…Ngày xưa chửi Mỹ hơn người/ Ngày nay nịnh Mỹ hơn mười lần xưa/ Ngày
xưa đánh Mỹ không chừa/ Ngày nay con cái lại lùa sang đây/ Ngày xưa Mỹ xấu, đảng
hay/ Ngày nay đảng ngửa hai tay xin tiền…”
Anh chị em chúng tôi thương kính nhìn
má và thán phục trí nhớ dai của bà! Chị Hoàng Yến lanh miệng lên tiếng:
-
Mèn ơi, chúng con thiệt nể má vô cùng, cái gì má cũng nhớ… Bọn anh em
mình phải cẩn thận nghe! Nếu lỡ dại nói sai, má nhớ mà buồn trong lòng thì
không nên và phiền lắm đó.
Chị Hạnh bới chén cơm cho chồng, cười
vui nhìn má:
-
Chuyện bàng quan thiên hạ sự, cái gì má cũng nhớ ráo trọi trơn. Vậy còn
chuyện tốt của người ta, má có nhớ không nè?
Anh em tui nhao nhao lên khen má mình lên tận mây xanh! Tui gắp
để vào chén má miếng thịt cá đã lấy hết xương ra rồi. Muốn chọc quê bà cho nhà
cửa thêm vui nhộn, tôi bèn nở nụ cười lí lắc liếc liếc má, rồi trề môi dài cả
thước.
Hương tôi bèn lớn họng:
-
Đó là cái chắc, má nhớ dai thầy chạy luôn! Nhưng má cũng hay quên, vì
nhớ hay quên gì má mình cũng khôn lắm... Các anh chị không biết đâu, hễ đứa nào
thiếu tiền má từ mấy mươi năm trước thì má cũng nhớ, đòi trèo trẹo và không
quên một xu! Nhưng thiệt là ngộ lắm, nếu má thiếu tiền đứa nào thì má quên sạch
sẽ, quên mất tiêu luôn hà…
Cả nhà cười rộ lên, đứa chạy đến ôm
hôn má, đứa bóp vai, đứa bẹo má, đứa nựng càm má… tỏ lòng thương kính yêu quý
má vô cùng!
Rồi chúng tôi trở lại ăn uống nói cười
vui vẻ… Anh chị em tôi không ai nói ra, nhưng chúng tôi đều cảm thấy chưa bao
giờ có buổi họp mặt gia đình lần nào vui vẻ như buổi họp mặt hôm nay, kể cả lúc
có mặt ba tôi và chồng tôi như thuở còn sanh thời...
Nghĩ và nhớ đến ba mẹ con tôi cùng má
bất ngờ được định cư ở Mỹ cũng gần hai năm rồi! Đôi lúc trong giấc ngủ chập chờn
tôi tưởng mình chiêm bao. Nhưng không, chúng tôi hiện sống trong một căn nhà nhỏ,
gần gia đình anh chị Ba Đồng Tháp ở nước Mỹ đây mà!
“Tại sao chúng tôi (má, tôi và hai đứa
con) đến được Mỹ?” Sự việc xảy ra nầy như trong phim thần thoại, ngoài sức tưởng
tượng của má và anh chị em tôi cùng những người thân quen! Chúng tôi đến Mỹ
trong trường hợp hết sức đặc biệt mà tôi nghĩ rằng từ cổ chí kim chắc chưa từng
có xẩy ra trên nước Mỹ, và cũng có lẽ cả trên quả địa cầu nầy!
Bỗng
má tôi nhìn chị Ba Hiếu đôi mắt dịu dàng với lòng đầy mến thương. Nắm tay chị mắt
bà trầm xuống nét mặt trang nghiêm chậm rãi, nhẹ giọng ôn tồn cảm động, bảo:
- Má và anh em bây phải luôn luôn biết ơn vợ
thằng Hiếu, chị Ba bây là “Con Đồng Tháp” của má…
Nghe
má nói đến đó chúng tôi cười ngã qua ngã lại cười bò lăn bò lộn. Má tôi cũng bật
cười thành tiếng. Còn tôi không nhịn được cười nhưng cũng nhăn mặt, cằn nhằn
(chỉ có Út Hương mới dám):
- Đã mấy chục năm, biết bao nhiêu vật đổi sao dời
chạy sang đến xứ người ta, mà má vẫn không tiến bộ chút nào hết… Không quên mà
vẫn nhớ cứ gọi chị Ba là “Con Đồng Tháp” hoài hà! Thôi bỏ đi má ơi, người ta
nghe thì cười và tưởng má là bà già cố chấp, là khó khăn, là: “bà mẹ chồng ít
ai có/ Làm con gà để đó ngó dâu…” để cho con dâu thầm than: “Vì tằm em phải chạy
dâu/ Vì chồng em phải qua cầu đắng cay…” đó nghe má!
Chị Ba tôi vốn dĩ hiền lành ít hay
nói, nhưng cũng cười ngất đến ôm vai má chồng, đỡ lời:
- Không đâu, con chẳng những không ngại, mà còn
thích má gọi là “Con Đồng Tháp” nữa kìa. Cái tên đó vừa thân thương, vừa êm đềm
khiến cho con nhớ về cha mẹ, anh em… Gợi cho con thêm thương mến vùng đất quê
hương mộc mạc hiền lương, nơi chôn nhau cắt rúng của mình...
Má
tôi mắt đăm chiêu mơ màng nhìn ra cửa sổ, như cố nhớ lại thời đã qua. Bà thở
dài rồi thật tình đều giọng kể:
- Thật sự lúc đó má cố tình gọi vợ thằng Hiếu
là “Con Đồng Tháp” không phải là có ý tốt đâu! Các con cũng biết thuở đó gia
đình mình rân rác đến đâu, bên nội bên ngoại cùng giàu nức tiếng một vùng… Thằng
Hiếu nhà mình lại là cháu đích tôn, đàng hoàng, lễ độ, hiếu thảo ai cũng thương
mến… Má thấy con Thu Hồng cũng lành gái, xứng đôi với anh Ba các con. Nhưng thật
ra vì thương con thương thằng Hiếu nên má mới cầm trầu cau đi cưới nó cho anh
Ba bây. Nhưng má không cam lòng đi cưới một đứa con gái ở vùng quê mùa, cày sâu
cuốc bẫm cho con trai trưởng của mình. Cho nên má mới gọi cho nó cái tên
là “Con Đồng Tháp” để tỏ trong thâm tâm
má đầy vẻ không ưa, kỳ thị… cho bõ ghét! Nhưng khi về sống chung đụng, mới biết
tánh tình nó chân chất thật thà, hiếu đạo, biết lo cho chồng con và yêu thương
gia đình chồng như gia đình mình… Lúc đó “Con Đồng Tháp” với má có ý nghĩa
khác, thân thương, yêu mến như con gái chớ không còn là con dâu ghét của mẹ chồng
nữa…
Nói
đến đây má tôi kéo khăn trên vai chậm nước mắt cảm động. Anh Ba tôi lấy tay xoa
lưng má, còn chị “Ba Đồng Tháp” thì vui vẻ, trả lời:
- Con chưa hề nghĩ đến ý không tốt, mà con nghĩ
má muốn ghẹo con ở chỗ nào đó phát xuất từ Đồng Tháp Mười, một nơi quê mùa
trong lòng mọi người thuở đó chớ không riêng ai. Nên con vui thích chớ không có
buồn khi nghe má gọi mình là “Con Đồng Tháp” các cô chú gọi là: “Chị Ba Đồng
Tháp”...
Tôi
cũng thành khẩn nhìn “Chị Ba Đồng Tháp” đầy lòng biết ơn, nghẹn ngào lên tiếng
bảo với các anh chị có mặt đầy đủ hôm nay:
- Cháu Hiếu Kiệt con anh
chị Ba qua Mỹ khi có quốc tịch thì vào quân đội Mỹ. Cái tang chung cho gia đình
chúng ta mất mát một thanh niên khỏe mạnh, hiếu thảo và đạo đức của gia đình! Cháu đã bị thương vong trên chiến trường Trung Đông! Số là “...
Cháu và mấy đồng đội khác không chết trong trận chiến, mà chết vì quân ta (quân
đội Mỹ) bắn lầm! Chánh phủ Mỹ đã trợ cấp cho vợ con cháu, và anh chị Ba được hưởng
mọi quyền lợi của cha, mẹ của một quân nhân Mỹ. Họ còn xin lỗi anh chị Ba và hỏi:
“…Ông bà có yêu cầu gì để đền bù về lỗi lầm chúng tôi đã gây ra thì xin cho biết…?
Nếu được, chúng tôi sẽ đáp ứng lời yêu cầu của ông bà….” Anh chị Ba lúc đó bấn
loạn tinh thần vì người tóc bạc khóc người tóc xanh, trong lúc lo tang lễ của
con. Anh chị hẹn, sau khi xong đám tang, sẽ trả lời cho họ biết về sự yêu cầu của
anh chị.
Bữa
cơm đã tàn, dĩa, bát, mọi thứ dọn qua chỗ rửa chén. Má vào phòng nằm nghĩ còn dặn
đến giao thừa thì gọi bà thức... Không ai bảo ai anh chị em chúng tôi mỗi người
trở lại ngồi vào chỗ của mình, yên lặng chờ nghe tiếp chuyện kể dang dỡ của
tôi, và anh chị Ba cũng trầm ngâm ngồi xuống tự nãy giờ. Ngoài anh chị Ba, mấy
anh chị tôi hồi nào đến giờ biết mẹ con tôi và má qua Mỹ được là nhờ anh chị Ba
bảo lãnh thôi, chớ chưa ai biết rõ cặn kẽ sự tình như thế nào!
Tôi lau tay rồi trở lại ngồi xuống chỗ
của mình, tằng hắng lấy giọng bùi ngùi, kể tiếp:
-
Anh chị Ba yêu cầu thẳng với đại diện Chánh Phủ Mỹ: “Đại gia đình chồng
tôi kẻ vượt biên trốn chạy, người đi theo diện H.O bỏ nước Cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi còn bà mẹ già, và ba mẹ con cô em gái bị kẹt lại bên đó. Chồng cô em
tôi là sĩ quan trong quân lực Việt Nam Công Hoà bị đày đọa cho đến chết trong
tù cải tạo của Việt cộng… Chúng tôi mong quý ông giúp đỡ cho mẹ, và gia đình cô
em qua đây đoàn tựu với chúng tôi…” Lời yêu của anh chị Ba với Chánh quyền Mỹ,
chưa tròn năm thì má, và ba mẹ con em được vào Hoa Kỳ... Nhưng các anh chị
không ai biết rõ ngọn ngành như em vừa kể… Các anh chị thì sao không biết,
nhưng riêng mẹ con em không bao giờ quên ơn anh Ba, nhứt là chị “Ba Đồng Tháp”.
Ơn đó nếu không trả hết ở kiếp nầy, thì mẹ con em nguyện kết cỏ ngậm vành trả ở
kiếp mai sau…
Anh chị tôi nghe xong, nhìn chị “Ba Đồng
Tháp” với lòng đầy thương cảm, và biết ơn... Bên ngoài trời tối đen như nhuộm mực,
luồng gió xuân man mác lùa qua cửa sổ vào phòng tỏa mùi hương ngạt ngào của hoa
hồng trồng ngoài hiên. Chị em chúng tôi, mỗi người một tay: trà, mứt, kẹo, chà
là, chuối khô, bánh tét, bánh ít, bánh phồng, hoa tươi, trái cây, dưa hấu, và
mâm ngũ quả “cầu, dừa, đủ, xoài, dâu, thơm” đã chuẩn bị sẵn sàng cho hai anh và
anh rể tôi bày ra bàn, để chút nữa đây má thức dậy cùng nhau cúng đón Giao thừa.
Đây là đêm Trừ Tịch đầu tiên của má và
đủ mặt anh chị em chúng tôi đón Tết Nguyên Đán nơi xứ người. Trong nhà ấm nồng
mùi khói hương, trà hoa quả tỏa bay trong yên lặng, hòa với cái yên lặng bên
ngoài, khiến trong lòng chúng tôi cảm nhận được sự thiêng liêng ấm áp của đất
trời trong đêm giao thừa mừng Tết Nguyên Đán... Riêng tôi hạnh phúc vô cùng mặc
dù đón xuân nơi đất khách.
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
No comments:
Post a Comment