Bữa cơm chiều 29
Tưởng Năng Tiến
Dường
như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình
xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết,
thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy
biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao
nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một
… kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.
Ôi!
Tưởng gì chứ chuyện “phiêu bạt” thì nào có khó chi, khi sinh trưởng
trong một đất nước chiến tranh và ly loạn. Muốn là được liền thôi.
Trời – đôi khi – cũng chiều lòng người, và chiều tới nơi tới chốn!
Những
tháng ngày niên thiếu vụt qua như một cánh chim. Tôi bước vào tuổi đôi
mươi, đúng vào Mùa Hè Đỏ Lửa, cùng với lệnh Tổng Động Viên. Thế là
tôi “xếp bút nghiên để theo việc đao cung.” Hay nói một cách ít
kiểu cọ hơn là tôi đi lính.
Sau
lính đến tù, với tội danh (nghe) hơi nặng là “cầm súng chống lại
nhân dân.” Ra tù, vừa lếch thếch về đến nhà chiều hôm trước, ngay
sáng sớm hôm sau ông công an khu vực đã vội vã ghé “thăm” và “nhắc
nhở” đôi điều cần thiết:
· Vì
không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.
· Trong
khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai, tôi phải sắm “một cuốn sổ đi
lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của
tổ trưởng dân phố, và đến đâu gặp ai cũng phải có sự xác minh của
viên chức chính quyền ở nơi đó.
· Mỗi
tuần phải mang sổ lên phường để công an kiểm tra.
· Mỗi
tháng phải đọc kiểm điểm trước tổ dân phố để nhân dân nhận xét và
phê bình ưu/khuyết điểm.
Nghe
xong, mẹ tôi lặng lẽ móc túi đưa cho thằng con mấy tờ giấy bạc cùng
lời căn dặn:
· Thế
thì mua luôn cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người
ký thì dắt viết theo luôn cho nó đỡ phiền.
· Dạ.
Tôi
cầm tiền bước ra khỏi nhà, ghé vào cái quán nhỏ bên đường mua một
ly rượu trắng và mấy điếu thuốc lẻ. Ực xong ly rượu, tôi châm thuốc
hút rồi lủi thủi bước đi, vừa đi vừa lầm bầm mấy câu thơ
của Thâm Tâm (Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như
là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say) và đi luôn cho tới bây giờ.
Mấy
chục năm qua, không ít lúc, tôi cũng nhớ nhà mà chả rõ nhớ ai. Bố
mẹ đã từ trần từ lâu. Anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ
tán cả rồi. Tôi nhớ quê chứ không phải nhớ nhà, chắc vậy.
Tôi
nhớ Đà Lạt cùng tiếng mưa đêm rầm rì, thầm thì qua mái ngói. Nhớ
những bữa cơm chiều và món con cá nục hấp (chiên vàng rồi mới kho
chung với tóp mỡ) cùng những lát ớt đỏ tươi. Nhớ những buổi sáng
sớm tuy vẫn còn nằm trong chăn ấm (lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít
trên mái ngói) nhưng biết được rằng cơn bão rớt đã qua, hôm nay trời
sẽ nắng tươi vàng.
Đôi
khi, tôi cũng nhớ Rạch Giá vào những ngày biển động. Trời sụt sùi
mưa, mây mù thấp xám, sóng dạt bờ kè tung tóe. Tôi lần dò đến thành
phố này với hy vọng tìm được đường chui, dù chả quen biết một ai và
cũng không một đồng xu dính túi.
Ban
đêm, tôi thường nằm quấn mình trong một tấm vải nhựa ở chân cầu Đúc.
Ngày thì hay đi loanh quanh trong chợ Nhà Lồng. Lòng buồn, bụng đói,
dạ hoang mang nhưng mắt vẫn không rời những chiếc bàn ăn với ước mong
có thể kiếm được chút gì còn sót lại trong tô hay trên dĩa. Niềm
mong ước rất mỏng manh vì vào thời gian này (những năm cuối của thập
niên 1980 – khi phong trào vượt biên đang lên tới đỉnh) thì gần như mọi
người đều đói cả, chứ chả mấy kẻ no.
Rạch
Giá có một tiệm ăn nổi tiếng (Tây Hồ) ở số 6 đường Nguyễn Du. Tôi
thường thập thò trước cửa nhưng không mấy khi chạy vội vào
bên trong, ngay khi thực khách vừa buông đũa. Tôi ngượng, đã đành; điều
khó đành hơn là ánh mắt thèm thuồng của mấy đứa bé bẩn thỉu, gầy
gò đứng cạnh bên. Chúng cũng đang chầu chực “khẩn trương” chả khác
chi mình.
Cả
đám – chắn chắn – đã không đến nỗi này, nếu tôi không phải là một
kẻ bại trận trong cuộc chiến vừa qua. Tôi vẫn nghĩ thế nên cái mặc
cảm của kẻ có lỗi đã luôn giữ chân tôi lại, với không ít buồn rầu!
Có
lẽ nhờ chút sĩ diện (còn sót) này mà tôi đã được những người chạy
bàn “đối đãi cách riêng.” Họ cho tôi cái đặc ân quí giá là được sớt
vô lon guigoz ít thức ăn thừa, vào giờ đóng cửa.
Nhờ
thế mà tôi biết canh chua cá chẻm của quán Tây Hồ ngon lắm, canh chua
cá lóc còn ngon hơn nữa, còn cá rô kho tộ (có lần tôi được hưởng
gần cả nguyên con) thì ngon hết biết luôn. Nó ngon đến độ khiến tôi
suýt hóc xương chỉ vì nhai vội quá!
Nhiều
người nói là ở Mỹ muốn ăn thứ gì cũng có – bất kể là món của
Tây, Tầu, Cận Đông, Trung Đông, Viễn Đông hoặc Phi Châu lục địa. Tôi đã
lê la qua hàng ngàn quán ăn ở đất nước này nhưng không tìm đâu ra được
canh chua cá lóc và cá rô kho cả.
Từ
California, muốn tìm lại được hai thức ăn này, phải mất đến hơn 20
giờ bay lận! Xin ghi địa chỉ đây cho người đồng điệu, khi
cần: Nhà Hàng Ngon (Preah Sihanouk Blvd 274, Tonle
Bassac) Phnom Penh – Cambodia.
Tôi
mới ghé đây chiều qua, chiều 29 Tết. Không thể đến vào ngày mai vì 30
quán đóng. Tôi đã bỏ cái thói quen thập thò trước tiệm ăn tự lâu
rồi. Bây giờ tôi đàng hoàng thong thả bước vào bên trong, cười đùa
thân thiện với những nhân viên (đứng chào khách ngay tận cửa) và
không quên đút nhẹ vào túi trên của họ mấy tờ giấy bạc lì xì.
Dù
chỉ có mặt xuân thu nhị kỳ, tôi không phải là khách lạ vì khó ai
quên được một ông già Á Châu nhưng không nói được tiếng Tầu (tiếng
Thái hay tiếng Miên cũng nỏ) luôn vui vẻ đùa cợt, và lúc nào cũng
chỉ gọi một thứ thức ăn duy nhất: cá rô kho.
Tôi
luôn được tiếp đón hơi quá nồng hậu vì có thói quen over tiping,
không bỏ sót một cô hay cậu chạy bàn nào đang có mặt, và cũng không
quên người đứng bếp. Chắc các em nghĩ là tôi giầu có và hào phóng,
chứ đâu có biết rằng tôi buộc phải trả thêm tiền cho những gô cơm
(ngon tuyệt vời) mà mình vẫn còn thiếu nợ ở quán Tây Hồ, từ mấy
mươi năm trước.
Phải
mất gần nửa tiếng món ăn ruột của tôi mới được dọn ra. Mấy chú cá
rô bé bỏng chỉ bằng ba ngón tay thôi, tiêu đen rắc lấm tấm trông giống
như mè, thơm phức. Cơm trắng cũng ngạt ngào hương gạo mới nhưng tôi
không cảm thấy đói, dù đã uống “khai vị” hơi nhiều.
Ơ
cá chiều nay – không dưng – khiến tôi hơi nghèn nghẹn, dù tuổi già hạt
lệ như sương. Lại nhớ nhà chăng? Tôi không nhớ nồi cá nục kho vào những
chiều mưa Đà Lạt khi mình còn thơ ấu (và còn được sống trong yên ấm)
nhưng nhớ những ngày biển động ở Rạch Giá, và lũ trẻ thơ bất hạnh
năm nào.
Đứa
bé nhất thì nay cũng đã đến tuổi ngũ tuần rồi. Cũng sắp xong một
kiếp người đen đủi. Đúng như ước mơ của thời niên thiếu, nửa thế kỷ
rồi, tôi “được giang hồ phiêu bạt” qua rất nhiều nơi (những vùng đất
văn minh phú túc, cùng những xứ sở lạc hậu nghèo nàn) nhưng chưa
thấy đâu mà kiếp nhân sinh lại nhọc nhằn, cay đắng, cơ cực và tủi
nhục như ở cái phần quê hương khốn khổ khốn nạn của mình.
No comments:
Post a Comment