Wednesday, August 18, 2021

NHỮNG MẢNH ĐỜI (ĐỖ BÌNH)

 

NHỮNG MẢNH ĐỜI

 

Đỗ Bình

 

Hồi chuông của ngôi giáo đường trong khu phố cổ vang lên thánh thót chất chứa niền vui, tiếng ngân hòa theo gió nhập vào cây cỏ rồi loãng dần trong không gian nhưng dư âm vẫn đọng lại trong hồn người một chút cảm giác lâng lâng như thức tĩnh hồn ai đang chìm đắm trong mê say vật chất.

Không xa khu phố cổ là một thành phố mới được xây dựng những năm gần đây. Trái với sự trầm mặc của khu phố cổ, thành phố mới rất sinh động, tấp nập nguời qua lại, những cửa hiệu sang trọng màu sắc lộng lẫy chen với những quán cà phê, những bảng hiệu nhà hàng rực rỡ ánh điện màu, và dọc theo hành lang lúc nào cũng đông người.

Tôi về thành phố nầy đã hơn mười năm, ngay từ lúc người ta mới khởi công xây cất. Thưở ấy nhà cửa còn rải rác, chung quanh là những cánh rừng xanh. Con đường trải đá xanh dẫn vào phố đã mòn, ngả màu bạc. Ngôi giáo đưòng cổ kính kiến trúc theo lối Gô tích nằm ngay quảng trường phố chính trông rất đẹp và hùng vĩ, nó có từ hàng thế kỷ trước. Ngày xưa dân cư ngụ ở đây rất ít nên chẳng cần phải mở mang thêm đường sá vì dân cư thường đi bộ, đôi khi vào những ngày hội lễ họ mới dùng xe ngựa, hơn nữa người ta muốn giữ những di tích cũ. Dọc theo con lộ về Paris là những cánh đồng vàng rực hoa Hướng Dương trông như tấm thảm bạt ngàn, thỉnh thoảng có những đồi cỏ dại. Nay mảnh đất ấy thay đổi, đã là phố mới, khu duới dành cho nhà ga, xe điện ngầm, xe buýt và xe hơi; tầng trên là thànhphố nổi dành cho khách bộ hành. Không phải là người địa phương lâu năm khó mà biết được những dấu vết hoang dã đầy thơ mộng ban đầu.

Căn nhà tôi thuê nằm ven rừng, cạnh con sông L'Oise mà dòng nước chảy lặng lờ vắt ngang khu phố cổ, nay đã biến thành nơi bến cảng của du thuyền. Ở đây, ngày tháng qua rất nhanh, tôi đã cảm nhận được sự mầu nhiệm của thiên nhiên với bốn mùa thay đổi, khi hoa xuân vừa chớm nụ, khách yêu hoa chưa kịp thưởng lãm đã thấy hạ sang. Nắng hồng mới ấm ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc lá vàng đi và trên cành chỉ còn lại những chùm tuyết mùa đông. Thời gian quả vô tình như chiếc bóng lặng lẽ trôi. Tôi đã thấm trọn nỗi buồn trong xương tủy của kẻ xa xứ, và thông cảm cho những tâm hồn nghệ sĩ, vì chỉ có họ mới cảm nhận được cái bóng của thời gian chắp cánh. Họ đã sống và hòa với nhịp thở của thời gian nên nắm bắt được quá khứ, và giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn, tan loãng. Họ đã minh họa nó qua áng văn, vần thơ, điệu nhạc để hoài niệm một thời xa khuất….Đôi khi vượt trước cả thời đại để vọng lên tâm khúc bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt mà người đương thời còn ngỡ ngàng, chưa hòa điệu!

Công ty tôi làm việc nằm trong khu thương mại, một trong những khu sầm uất nhất Paris. Vì cư ngụ ở ngoại ô nên vào Paris tôi phải mất hơn nửa giờ, không kể thời gian đợi tàu lửa rất lâu. Tôi lại có thói quen thích ngồi quán ca phê ngắm thiên hạ qua lại, sau đó mới đến sở. Cái thói quen từ thưở còn đi học ở Sài Gòn, tưởng qua đây sẽ chẳng còn vì thời gian eo hẹp. Để sống lại cái thú xưa tôi phải lấy chuyến xe khởi hành đi Paris sớm hơn một chuyến. Cũng may giờ làm việc của sở tôi có trễ hơn những công sở hành chánh khác. Từ khi có tuyến xe điện ngầm nối liền khu tôi với Paris, khoảng cách và thời gian thu ngắn lại cũng đỡ vất vả cho những nguời làm xa. Quanh khu tôi là vùng kỹ nghệ và khu đại học. Chẳng thế mà tuyến đường xe điện ngầm từ Paris vào tôi là tuyến rất đông người, nhất là những giờ cao điểm sáng hay chiều khó mà tìm được chỗ ngồi, nhiều khi hành khách phải đứng từ lúc lên cho đến khi xuống. Người ta đã quá quen cảnh chen lấn nhau như cá hộp, họ chỉ mong có chỗ đứng trong xe để được đúng giờ.

Mỗi sáng cũng vào giờ thường lệ tôi đợi xe đi Paris và ngồi toa hạng nhì, một phần của toa hạng nhất nhường lại. Chỉ có những người đi quen trong giờ cao điểm mới biết mà chọn toa nầy; nếu những người ít đi, họ có thể lầm là toa hạng nhất. Dĩ nhiên chẳng ai muốn lầm để bị phạt oan. Cũng nhờ hơi hướm của toa hạng nhất mà nó ít ồn ào. Do đo, những người muốn yên tĩnh hay muốn đọc sách đều rất thích toa nầy. Đã nhiều năm những bộ mặt này trở nên quen thuộc, họ ăn mặc rầt lịch sự, đa số là dân văn phòng. Họ biết nhau, chào nhau nhưng ít nói chuyện. Không khí trong toa tuy có "lạnh", thế mà lại hay! Trong khoảng không gian chung ấy vẫn có cõi riêng. Bước lên tàu, vẫn những khuôn mặt quen ấy đang chăm chú đọc sách. Tôi biến nhanh vào chỗ ngồi cũ và lấy sách ra đọc tiếp đoạn văn của tác giả người Pháp nói về tấm lòng người mẹ. Dù bất cứ giống người nào trên trái đất thì tình mẫu tử đều diệu vợi và cao đẹp như nhau. Có nhiều đoạn làm tôi bùi ngùi, bủn rủn! Tay cầm sách mà đầu miên man suy tưởng. Những khúc phim dĩ vãng ráp nối chẳng đầu đuôi cứ chợp chờn. Tôi nhớ thời thơ ấu bên mái ấm gia đình ở Hà Nội, thưở mà tiếng súng chống thực dân chỉ nổ trong vùng xa xăm bưng biền chiến khu chưa rộn hồn tôi. Và tôi lại nhớ đến Tết Mậu Thân, chiến tranh đổ ập vào thành phố Huế, Sai Gon,…khói lửa đạn bom giăng mù mịt. Nhà cháy, tường xiêu, xác người nằm phơi trên hè phố la liệt, có nhiều xác còn quá trẻ! Tôi tự hỏi : "Thế hệ nầy làm sao hiểu được cặn kẽ những từ hoa mỹ 'cách mạng và giải phóng'?!". Tôi ghét chiến tranh, tôi oán những người khởi xướng gieo thù hận, nhưng chẳng biết nhắm vào ai! Tôi chỉ biết vì họ, những người đã nhân danh "cách mạng, giải phóng" mà nhà tôi bị cháy, bạn bè tôi chết, sản nghiệp của mẹ tôi ký cóp từ khi bỏ xứ bắc vào nam bỗng một ngày tiêu tan! Tôi thương mẹ tôi đã hy sinh vì đàn con, chịu bao gian lao, nhọc nhằn! Ngày tôi bị động viên vào lính là ngày xác của thằng bạn thân học cùng lớp với tôi từ chiến trường mới đưa về, mẹ nó chết ngất trước cổ quan tài con! Còn mẹ tôi cũng tiễn con lên đường đầy nước mắt! Tôi vẫn ghi khắc nét lo âu tiều tụy trên khuôn mặt mẹ, nhất là đôi mắt buồn. Cả một đời bà ước mơ và chờ đợi nhưng chẳng bao giờ toại nguyện. "Mẹ tôi lùc còn chiến tranh hằng cầu nguyện quê hương sớm thanh bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến tranh lại cầu nguyện con thoát lao tù.Và giờ đây cầu nguyện quê hương được tự do dân chủ". Nghĩ đến đây, dòng lệ trong tôi tự trào. Suốt đời tôi làm cho mẹ buồn! Tôi đành cam tội bất hiếu, biết mẹ già yếu, bệnh nặng mà không về thăm. Vì khi tôi về….mẹ tôi chắc không còn đủ sức để nuôi tôi trong tù!!!

Khi đoàn tàu chui vào hầm, đèn trong toa bỗng sáng hơn. Tôi cất cuốn sách trong cặp, liếc sang những người phía hàng ghế bên, tôi bỗng thấy bộ mặt của họ trắng nhợt, khúc đường cong ánh đèn trong xe lung linh, trông mặt họ càng tái hơn. Tôi chợt nghĩ: "Đâu phải chỉ có người chết mới có độc qưyền ngự trị trong lòng đất mà những người sồng cũng đang di chuyển trong cõi chết". Đến trạm N.P. vắng hoe, tàu dừng lại vài phút. Có ít người khách từ các toa khác xuống. Tàu gần chuyển bánh bỗng có người thiếu phụ bế trong tay đứa con nhỏ vội vã bước lên tàu. Bà ta hơi ngập ngừng do dự, trong tư thế nửa muốn kiếm chỗ, nửa muốn đổi toa khác. Cuối cùng bà ấy tiến về hàng ghế tôi vì còn chỗ trống đối diện, có lẽ chỉ có tôi là người ngoại quốc duy nhất trong toa nầy. Tôi nép vao phía trong, nhường khoảng trống chính diện cho mẹ con bà. Đứa bé ré lên khóc gây sự chú ý cho mọi người. Tôi có dịp quan sát cháu bé và bà kỹ hơn. Thiếu phụ trước mặt tôi là người đàn bà trẻ đẹp, mặt sáng như trăng nhưng do bụi đường chấm phá làm ủ rủ nét thanh tao. Nàng còn trẻ lắm, cái tuổi còn cắp sách đến trường, thế mà đời lại phải xiêu bạt từ phương trời xa xăm miền Đông Âu loạn lạc! Chủ thuyết Cọng Sản đã làm băng hoại xứ sở nàng! Cũng là người Tây phương có một nền văn minh lâu đời, đất đai, quặng mỏ lại trù phú, nhưng xứ sở bị tàn phá bỡi chiến tranh nên nghèo đói, do đó mới trôi giạt sang Paris, một phương trời xa để tha phương cầu thực!

Paris, thủ đơ ánh sáng, cái nôi nhân quyền và là một trong những kho tàng văn hóa của nhân loại. Với nhũng công trình kiến trúc cổ như lâu đài thành quách, giáo đường ..vv.. Nhìn toàn cảnh Paris như một bức tranh ấn tượng đầy màu sắc, và khi về đêm càng lộng lẫy, rực rỡ hơn. Đứng từ xa đã trông thấy ngôi Thánh đường Sacré Cœoeur trên đồi Montmatre, nổi bật giữa nền trời xanh trong, ngôi đền ngoài sự linh hiển còn là một công trình nghệ thuật. Chỉ nhìn vào màu khối đá trắng toát ta cũng cảm thấy sự uy nghiêm hùng vĩ của ngôi thánh đường. Nằm bên sườn đồi là khu phố lộng sắc màu trưng bày những bức tranh thuộc nhiều trường phái. Đây là những điểm gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ và du khách cùng hướng về cái đẹp. Dọc theo những con đường hẹp đan nhau, đó, đây, những họa sĩ đang miệt mài trong cảm hứng sáng tạo. Cách đó không xa, vài nhóm nhạc sĩ đang hòa nhạc, họ thả hồn trong những bản giao hưởng mà từ đằng xa đã nghe âm thanh réo rắc.

Từ đồi Montmartre xuống khu phố sang trọng Champs Elysées, đại lộ được mệnh danh đẹp nhất thế giới, rồi ngang nhà thờ Notre Dame để đến vườn Luxembuorg qua khu phố Latin vào những con đường cổ trải đá, những ngôi nhà xưa mái tháp, mặt tiền được điêu khắc trạm trổ như trong những câu chuyện thần thoại cổ tích. Mạch sống của Paris là những con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, chằng chịt san sát nhà hàng, cửa hiệu, quán café, nơi ấy lúc nào cũng đông khách và vỉa hè luôn rộn rã bước chân người. Nhưng Paris quyến rủ hơn khi bước vào thu, những con đường ngập lá vàng, hàng cây dọc bên bờ sông Seine vi vu trong gió. Chiếc cầu bắc ngang sông soi mình trong bóng nước. Dòng sông thơ mộng ấy là nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ, họ dệt cho đời những thiên tình sử còn ghi lại trong văn học nghệ thuật.

Nếu Paris thơ mộng, đẹp như bức tranh cổ cho những tâm hồn thơ mộng, thì nơi ấy vẫn có những mảnh đời vụn vỡ! Giới thượng lưu sống trong nhung lụa, tháp ngà của thời đại hoàng kim mới, còn giới bụi đời sống mờ nhạt trong cõi trần ai, xa rời thế giới cực kỳ vật chất, lắt lay ở các vỉa hè và hầm Métro. Trong giới nầy không phải ai cũng là hành khất, có đủ hạng người, từ những người truớc kia từng làm chủ một công ty, giám đốc một xí nghiệp hay thuộc giới trí thức khoa bảng đến những kẻ sa cơ. Do nhiều hoàn cảnh khác nhau đã xô đẩy họ phiêu bạt giang hồ, không nhà không cửa, sống lắt lay dưới các hầm Métro hay góc kẹt cầu. Đa số rơi vào cuộc sống buông thả bắt nguồn từ sự tan vỡ hạnh phúc gia đình! Số ít do cái thú thích kiếp sống lãng tử. Có một qũy xã hội để trợ cấp cho những người nầy như chỗ ăn ở, nhất là, ở một số tụ điểm trong Paris mỗi tối có những xe chở đầy thực phẩm nấu chín đến phân phát cho từng người. Nhưng nạn ăn xin lan tràn ở Paris ngày càng nhiều, khởi đi từ họa Cọng sản Đông Âu đã xô đẩy bao tâm hồn vào nơi gió bụi!

Tiếng khóc của đứa bé ré lên phá tan không khí tĩnh mịch trong toa gây sự chú ý của bao cặp mắt. Bà mẹ trẻ cố dỗ nhưng cháu bé lại càng khóc lớn. Tôi cảm thấy bối rối vì không giúp được gì. Một bà khách lớn tuổi ngồi hàng ghế bên lên tiếng: "Cháu sao khóc thế?". Bà nói tiếp: "Thời tiết mấy hôm nay bỗng trở lạnh, nên mặc quần áo thật ấm cho cháu!".

Người mẹ trẻ lúng túng quay sang trả lời:"Cám ơn Bà cháu mặc rất ấm. Cháu khóc chắc đã đói! ".

-"Cháu có ăn được chocolat?" ,một bà khách khác hỏi.

-Cảm ơn Bà, cháu còn quá bé, chưa dùng chocolat được! ". Bà mẹ trẻ vừa quay lại trả lời vừa cởi áo khoác, rồi vạch áo trong để lộ một bên vú trắng ngần, căng đầy sữa trước bao cặp măt mở lớn tròn xoe. Quả thật họ ngạc nhiên là phải, họ ngạc nhiên không phải nhìn thấy cái ngực trần, vì đối với người Âu Mỹ, nhất là phụ nữ Pháp, họ thích khoe thân hình có bộ ngực đẹp vào những buổi hè ở bãi biển. Còn trường hợp nầy, giữa thủ đô Paris đầy tráng lệ lại có người phụ nữ trẻ đẹp vạch vú cho con bú trước công chúng, thay vì nó chỉ xuất hiện ở nhà quê hay nhà riêng. Hình ảnh người mẹ âu yếm con thật đẹp, đầy cảm động như bức tranh sơn dầu "Tình mẫu tử" của danh họa người Mỹ Mary Cassatt cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thuộc trường phái ấn tượng.

Đứa bé thấy vú mẹ chúi vào bú ngấu nghiến. Tôi thấy vài cặp mắt theo dõi đều loáng ánh reo vui như chia niềm hạnh phúc.. Riêng tôi cũng cảm thấy bồi hồi nhìn cháu bé đang hưởng một hạnh phúc tuyệt vời, đó là tình mẹ. Tôi lại miên man hồi tưởng thời thơ ấu.

Xe ngừng trạm sau, ở những toa khác có rất nhiều hành khách lên xuống, nhưng toa tôi ngồi chỉ có một người khách lên tàu, đó là một bé trai, tuổi độ lên tám, mái tóc vàng dợn sóng dài lỏa xỏa trên gương mặt hốc hác, xanh xao, trông càng lem luốc! Em mặc ở trong một chiếc áo sơ mi, ngoài là chiếc len cũ màu xanh rêu. Chiếc quần vải xám đậm đã sờn gối. Nếu được chăm sóc kỹ trông em chắc sẽ khác, và khuôn mặt đầy nét thông minh sẽ kháu khỉnh hơn. Thương thay chiến tranh đã cướp đi tương lai, hạnh phúc và tuổi thơ ngây của em!

Tàu chưa kịp đóng cửa khởi hành thì em đã nghêu ngao hát một bài ca của xứ sở. Tôi không hiểu gì về lời ca, nhưng biết chắc em chưa biết nhiều về âm nhạc. Em cố hát to cốt gây chú ý hành khách để xin tiền. Tiếng hát nghe não lòng, có lẽ em đã khóc trong tiếng hát cho thân phận làm người! Nhưng lời ca đó đã loãng trong sự hững hờ, vì hành khách ngày nào cũng nghe nên đã quá nhàm! Hơn nữa trên các tuyến đường xe điện ngầm của Paris đầy rẫy những nghệ sĩ hát dạo, kẻ bụi đời và hành khất. Mặc dù hát dạo nhưng những nghệ sĩ nầy chơi nhạc rất điêu luyện, họ trình tấu rất nhuyễn những nhạc phẩm thời trang đang thịnh hành, và nhiều bài giao hưởng. Sau khi chơi xong một hay hai bản nhạc, họ thường được hành khách tặng cho ít tiền lẻ. Thỉnh thoảng cũng có những nghệ sĩ chuyên nghiệp trình bày những buổi hòa nhạc giao hưởng cho khách bộ hành thưởng lãm.

Em bé hát xong, cầm chiếc lon đi dọc theo hai dãy ghế xin tiền. Hành khách vẫn mải mê trên trang sách, hình như họ tảng lờ tiếng kêu thống thiết của em! Riêng tôi cũng muốn tặng em ít tiền nhưng bản tánh Á Đông khiến tôi do dự! Sự tế nhị không cho phép tôi móc tiền ra bố thí cho kẻ khác, khi mà mẹ con người đối diện tôi cũng thuộc diện cậu bé nhưng đang làm một hành khách?! Tôi không thể xúc phạm đến tự ái của bà, dù bà chẳng để ý đến những suy nghĩ của tôi. Để tránh bối rối, tôi giả đò nhắm mắt ngủ khi em bé đến hàng ghế. Tôi cảm thấy thèn thẹn khi khước từ lời van xin của em bé. Tôi bỗng lạnh toát vì dĩ vãng lại chợt về: "Tôi đã từng bị đày gánh phân và bỏ đói trong tù, đã từng ăn củ chuối, uống nước lã cầm hơi hay nhai những loài cỏ dại để đỡ đói….Và cũng từng thèm những hạt cơm, mẩu đường, miếng tóp mỡ…Tôi đã chịu bao nhiêu mùa giá rét nơi rừng sâu núi thẳm trong manh áo tả tơi! Nghĩ đến mà rùng mình về những ngày khốn khổ ấy!".

Tiếng loảng xoảng những đồng bạc cắc rơi không đều nhau trong lon thiếc nghe ròn rã như pha lê vỡ. Tôi mở bừng mắt thấy người thiếu phụ trẻ đang nhoẻn miệng cười, còn em bé cúi đầu, mồm nói tiếng cảm ơn. Tôi liếc sang những hàng ghế bên thấy mọi cặp mắt đều thò lõ đổ về phía bà. Họ quay lại nhìn nhau, không nói gì nhưng chắc hẳn trong tâm tư mỗi người đều có chút bâng khuâng. Họ và tôi không thể ngờ tiếng van xin của em bé lại được một người hành khất khác chia xẻ.

Ôi! Quả thật chỉ có những kẻ khốn cùng mới thông cảm và thương nhau! Lá rách đùm lá nát!

Đến trạm kế tiếp, người thiếu phụ ẵm con xuống, mọi người đều nhìn theo, dáng mẹ con bà khuất sau phía cầu thang. Em bé hát rong đổi sang toa khác tiếp tục hát bản nhạc quen thuộc. Riêng tôi lòng bồi hồi về hình ảnh những người tỵ nạn Cọng sản ấy.Tôi lang thang vài đường phố, đầu miên man về những danh từ: "chiến tranh, thù hận và tình yêu". Tôi đến sở mới chợt nhớ mình đã bỏ quên thói quen ngồi café!

 

Đỗ Bình


No comments: