NHỮNG MẢNH ĐỜI
Đỗ Bình
Hồi chuông của ngôi giáo đường trong khu phố cổ vang lên thánh thót chất
chứa niền vui, tiếng ngân hòa theo gió nhập vào cây cỏ rồi loãng dần trong
không gian nhưng dư âm vẫn đọng lại trong hồn người một chút cảm giác lâng lâng
như thức tĩnh hồn ai đang chìm đắm trong mê say vật chất.
Không xa khu phố cổ là một thành phố mới được xây dựng những năm gần đây.
Trái với sự trầm mặc của khu phố cổ, thành phố mới rất sinh động, tấp nập nguời
qua lại, những cửa hiệu sang trọng màu sắc lộng lẫy chen với những quán cà phê,
những bảng hiệu nhà hàng rực rỡ ánh điện màu, và dọc theo hành lang lúc nào
cũng đông người.
Tôi về thành phố nầy đã hơn mười năm, ngay từ lúc người ta mới khởi công
xây cất. Thưở ấy nhà cửa còn rải rác, chung quanh là những cánh rừng xanh. Con
đường trải đá xanh dẫn vào phố đã mòn, ngả màu bạc. Ngôi giáo đưòng cổ kính
kiến trúc theo lối Gô tích nằm ngay quảng trường phố chính trông rất đẹp và
hùng vĩ, nó có từ hàng thế kỷ trước. Ngày xưa dân cư ngụ ở đây rất ít nên chẳng
cần phải mở mang thêm đường sá vì dân cư thường đi bộ, đôi khi vào những ngày
hội lễ họ mới dùng xe ngựa, hơn nữa người ta muốn giữ những di tích cũ. Dọc
theo con lộ về Paris là những cánh đồng vàng rực hoa Hướng Dương trông như tấm
thảm bạt ngàn, thỉnh thoảng có những đồi cỏ dại. Nay mảnh đất ấy thay đổi, đã
là phố mới, khu duới dành cho nhà ga, xe điện ngầm, xe buýt và xe hơi; tầng
trên là thànhphố nổi dành cho khách bộ hành. Không phải là người địa phương
lâu năm khó mà biết được những dấu vết hoang dã đầy thơ mộng ban đầu.
Căn nhà tôi thuê nằm ven rừng, cạnh con sông L'Oise mà dòng nước chảy lặng
lờ vắt ngang khu phố cổ, nay đã biến thành nơi bến cảng của du thuyền. Ở đây,
ngày tháng qua rất nhanh, tôi đã cảm nhận được sự mầu nhiệm của thiên nhiên với
bốn mùa thay đổi, khi hoa xuân vừa chớm nụ, khách yêu hoa chưa kịp thưởng lãm
đã thấy hạ sang. Nắng hồng mới ấm ngọn lá thì gió thu chợt đến mang những chiếc
lá vàng đi và trên cành chỉ còn lại những chùm tuyết mùa đông. Thời gian quả vô
tình như chiếc bóng lặng lẽ trôi. Tôi đã thấm trọn nỗi buồn trong xương tủy của
kẻ xa xứ, và thông cảm cho những tâm hồn nghệ sĩ, vì chỉ có họ mới cảm nhận
được cái bóng của thời gian chắp cánh. Họ đã sống và hòa với nhịp thở của thời
gian nên nắm bắt được quá khứ, và giữ cho dòng thời gian không bị đứt đoạn, tan
loãng. Họ đã minh họa nó qua áng văn, vần thơ, điệu nhạc để hoài niệm một thời
xa khuất….Đôi khi vượt trước cả thời đại để vọng lên tâm khúc bằng thứ ngôn ngữ
riêng biệt mà người đương thời còn ngỡ ngàng, chưa hòa điệu!
Công ty tôi làm việc nằm trong khu thương mại, một trong những khu sầm uất
nhất Paris. Vì cư ngụ ở ngoại ô nên vào Paris tôi phải mất hơn nửa giờ, không
kể thời gian đợi tàu lửa rất lâu. Tôi lại có thói quen thích ngồi quán ca phê
ngắm thiên hạ qua lại, sau đó mới đến sở. Cái thói quen từ thưở còn đi học ở
Sài Gòn, tưởng qua đây sẽ chẳng còn vì thời gian eo hẹp. Để sống lại cái thú
xưa tôi phải lấy chuyến xe khởi hành đi Paris sớm hơn một chuyến. Cũng may giờ
làm việc của sở tôi có trễ hơn những công sở hành chánh khác. Từ khi có tuyến
xe điện ngầm nối liền khu tôi với Paris, khoảng cách và thời gian thu ngắn lại
cũng đỡ vất vả cho những nguời làm xa. Quanh khu tôi là vùng kỹ nghệ và khu đại
học. Chẳng thế mà tuyến đường xe điện ngầm từ Paris vào tôi là tuyến rất đông
người, nhất là những giờ cao điểm sáng hay chiều khó mà tìm được chỗ ngồi,
nhiều khi hành khách phải đứng từ lúc lên cho đến khi xuống. Người ta đã quá
quen cảnh chen lấn nhau như cá hộp, họ chỉ mong có chỗ đứng trong xe để được
đúng giờ.
Mỗi sáng cũng vào giờ thường lệ tôi đợi xe đi Paris và ngồi toa hạng nhì,
một phần của toa hạng nhất nhường lại. Chỉ có những người đi quen trong giờ cao
điểm mới biết mà chọn toa nầy; nếu những người ít đi, họ có thể lầm là toa hạng
nhất. Dĩ nhiên chẳng ai muốn lầm để bị phạt oan. Cũng nhờ hơi hướm của toa hạng
nhất mà nó ít ồn ào. Do đo, những người muốn yên tĩnh hay muốn đọc sách đều rất
thích toa nầy. Đã nhiều năm những bộ mặt này trở nên quen thuộc, họ ăn mặc rầt lịch
sự, đa số là dân văn phòng. Họ biết nhau, chào nhau nhưng ít nói chuyện. Không
khí trong toa tuy có "lạnh", thế mà lại hay! Trong khoảng không gian
chung ấy vẫn có cõi riêng. Bước lên tàu, vẫn những khuôn mặt quen ấy đang chăm
chú đọc sách. Tôi biến nhanh vào chỗ ngồi cũ và lấy sách ra đọc tiếp đoạn văn
của tác giả người Pháp nói về tấm lòng người mẹ. Dù bất cứ giống người nào trên
trái đất thì tình mẫu tử đều diệu vợi và cao đẹp như nhau. Có nhiều đoạn làm
tôi bùi ngùi, bủn rủn! Tay cầm sách mà đầu miên man suy tưởng. Những khúc phim
dĩ vãng ráp nối chẳng đầu đuôi cứ chợp chờn. Tôi nhớ thời thơ ấu bên mái ấm gia
đình ở Hà Nội, thưở mà tiếng súng chống thực dân chỉ nổ trong vùng xa xăm bưng
biền chiến khu chưa rộn hồn tôi. Và tôi lại nhớ đến Tết Mậu Thân, chiến tranh
đổ ập vào thành phố Huế, Sai Gon,…khói lửa đạn bom giăng mù mịt. Nhà cháy,
tường xiêu, xác người nằm phơi trên hè phố la liệt, có nhiều xác còn quá trẻ!
Tôi tự hỏi : "Thế hệ nầy làm sao hiểu được cặn kẽ những từ hoa mỹ 'cách
mạng và giải phóng'?!". Tôi ghét chiến tranh, tôi oán những người khởi
xướng gieo thù hận, nhưng chẳng biết nhắm vào ai! Tôi chỉ biết vì họ, những
người đã nhân danh "cách mạng, giải phóng" mà nhà tôi bị cháy, bạn bè
tôi chết, sản nghiệp của mẹ tôi ký cóp từ khi bỏ xứ bắc vào nam bỗng một ngày
tiêu tan! Tôi thương mẹ tôi đã hy sinh vì đàn con, chịu bao gian lao, nhọc
nhằn! Ngày tôi bị động viên vào lính là ngày xác của thằng bạn thân học cùng
lớp với tôi từ chiến trường mới đưa về, mẹ nó chết ngất trước cổ quan tài con! Còn
mẹ tôi cũng tiễn con lên đường đầy nước mắt! Tôi vẫn ghi khắc nét lo âu tiều
tụy trên khuôn mặt mẹ, nhất là đôi mắt buồn. Cả một đời bà ước mơ và chờ đợi
nhưng chẳng bao giờ toại nguyện. "Mẹ tôi lùc còn chiến tranh hằng cầu
nguyện quê hương sớm thanh bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến
tranh lại cầu nguyện con thoát lao tù.Và giờ đây cầu nguyện quê hương được tự
do dân chủ". Nghĩ đến đây, dòng lệ trong tôi tự trào. Suốt đời tôi làm cho
mẹ buồn! Tôi đành cam tội bất hiếu, biết mẹ già yếu, bệnh nặng mà không về
thăm. Vì khi tôi về….mẹ tôi chắc không còn đủ sức để nuôi tôi trong tù!!!
Khi đoàn tàu chui vào hầm, đèn trong toa bỗng sáng hơn. Tôi cất cuốn sách
trong cặp, liếc sang những người phía hàng ghế bên, tôi bỗng thấy bộ mặt của họ
trắng nhợt, khúc đường cong ánh đèn trong xe lung linh, trông mặt họ càng tái
hơn. Tôi chợt nghĩ: "Đâu phải chỉ có người chết mới có độc qưyền ngự trị
trong lòng đất mà những người sồng cũng đang di chuyển trong cõi chết".
Đến trạm N.P. vắng hoe, tàu dừng lại vài phút. Có ít người khách từ các toa
khác xuống. Tàu gần chuyển bánh bỗng có người thiếu phụ bế trong tay đứa con
nhỏ vội vã bước lên tàu. Bà ta hơi ngập ngừng do dự, trong tư thế nửa muốn kiếm
chỗ, nửa muốn đổi toa khác. Cuối cùng bà ấy tiến về hàng ghế tôi vì còn chỗ
trống đối diện, có lẽ chỉ có tôi là người ngoại quốc duy nhất trong toa nầy.
Tôi nép vao phía trong, nhường khoảng trống chính diện cho mẹ con bà. Đứa bé ré
lên khóc gây sự chú ý cho mọi người. Tôi có dịp quan sát cháu bé và bà kỹ hơn.
Thiếu phụ trước mặt tôi là người đàn bà trẻ đẹp, mặt sáng như trăng nhưng do
bụi đường chấm phá làm ủ rủ nét thanh tao. Nàng còn trẻ lắm, cái tuổi còn cắp
sách đến trường, thế mà đời lại phải xiêu bạt từ phương trời xa xăm miền Đông
Âu loạn lạc! Chủ thuyết Cọng Sản đã làm băng hoại xứ sở nàng! Cũng là người Tây
phương có một nền văn minh lâu đời, đất đai, quặng mỏ lại trù phú, nhưng xứ sở
bị tàn phá bỡi chiến tranh nên nghèo đói, do đó mới trôi giạt sang Paris, một
phương trời xa để tha phương cầu thực!
Paris, thủ đơ ánh sáng, cái nôi nhân quyền và là một trong những kho tàng
văn hóa của nhân loại. Với nhũng công trình kiến trúc cổ như lâu đài thành
quách, giáo đường ..vv.. Nhìn toàn cảnh Paris như một bức tranh ấn tượng đầy
màu sắc, và khi về đêm càng lộng lẫy, rực rỡ hơn. Đứng từ xa đã trông thấy
ngôi Thánh đường Sacré Cœoeur trên đồi Montmatre, nổi bật giữa nền trời xanh
trong, ngôi đền ngoài sự linh hiển còn là một công trình nghệ thuật. Chỉ nhìn
vào màu khối đá trắng toát ta cũng cảm thấy sự uy nghiêm hùng vĩ của ngôi thánh
đường. Nằm bên sườn đồi là khu phố lộng sắc màu trưng bày những bức tranh thuộc
nhiều trường phái. Đây là những điểm gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ và du
khách cùng hướng về cái đẹp. Dọc theo những con đường hẹp đan nhau, đó, đây,
những họa sĩ đang miệt mài trong cảm hứng sáng tạo. Cách đó không xa, vài nhóm
nhạc sĩ đang hòa nhạc, họ thả hồn trong những bản giao hưởng mà từ đằng xa đã
nghe âm thanh réo rắc.
Từ đồi Montmartre xuống khu phố sang trọng Champs Elysées, đại lộ được mệnh
danh đẹp nhất thế giới, rồi ngang nhà thờ Notre Dame để đến vườn Luxembuorg qua
khu phố Latin vào những con đường cổ trải đá, những ngôi nhà xưa mái tháp, mặt
tiền được điêu khắc trạm trổ như trong những câu chuyện thần thoại cổ tích.
Mạch sống của Paris là những con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, chằng chịt san sát
nhà hàng, cửa hiệu, quán café, nơi ấy lúc nào cũng đông khách và vỉa hè luôn
rộn rã bước chân người. Nhưng Paris quyến rủ hơn khi bước vào thu, những con
đường ngập lá vàng, hàng cây dọc bên bờ sông Seine vi vu trong gió. Chiếc cầu
bắc ngang sông soi mình trong bóng nước. Dòng sông thơ mộng ấy là nguồn cảm
hứng của biết bao nghệ sĩ, họ dệt cho đời những thiên tình sử còn ghi lại trong
văn học nghệ thuật.
Nếu Paris thơ mộng, đẹp như bức tranh cổ cho những tâm hồn thơ mộng, thì
nơi ấy vẫn có những mảnh đời vụn vỡ! Giới thượng lưu sống trong nhung lụa, tháp
ngà của thời đại hoàng kim mới, còn giới bụi đời sống mờ nhạt trong cõi trần
ai, xa rời thế giới cực kỳ vật chất, lắt lay ở các vỉa hè và hầm Métro. Trong giới
nầy không phải ai cũng là hành khất, có đủ hạng người, từ những người truớc kia
từng làm chủ một công ty, giám đốc một xí nghiệp hay thuộc giới trí thức khoa
bảng đến những kẻ sa cơ. Do nhiều hoàn cảnh khác nhau đã xô đẩy họ phiêu bạt
giang hồ, không nhà không cửa, sống lắt lay dưới các hầm Métro hay góc kẹt cầu.
Đa số rơi vào cuộc sống buông thả bắt nguồn từ sự tan vỡ hạnh phúc gia đình! Số
ít do cái thú thích kiếp sống lãng tử. Có một qũy xã hội để trợ cấp cho những
người nầy như chỗ ăn ở, nhất là, ở một số tụ điểm trong Paris mỗi tối có những
xe chở đầy thực phẩm nấu chín đến phân phát cho từng người. Nhưng nạn ăn xin
lan tràn ở Paris ngày càng nhiều, khởi đi từ họa Cọng sản Đông Âu đã xô đẩy
bao tâm hồn vào nơi gió bụi!
Tiếng khóc của đứa bé ré lên phá tan không khí tĩnh mịch trong toa gây sự
chú ý của bao cặp mắt. Bà mẹ trẻ cố dỗ nhưng cháu bé lại càng khóc lớn. Tôi cảm
thấy bối rối vì không giúp được gì. Một bà khách lớn tuổi ngồi hàng ghế bên lên
tiếng: "Cháu sao khóc thế?". Bà nói tiếp: "Thời tiết mấy hôm nay
bỗng trở lạnh, nên mặc quần áo thật ấm cho cháu!".
Người mẹ trẻ lúng túng quay sang trả lời:"Cám ơn Bà cháu mặc rất ấm.
Cháu khóc chắc đã đói! ".
-"Cháu có ăn được chocolat?" ,một bà khách khác hỏi.
-Cảm ơn Bà, cháu còn quá bé, chưa dùng chocolat được! ". Bà mẹ trẻ vừa
quay lại trả lời vừa cởi áo khoác, rồi vạch áo trong để lộ một bên vú trắng
ngần, căng đầy sữa trước bao cặp măt mở lớn tròn xoe. Quả thật họ ngạc nhiên là
phải, họ ngạc nhiên không phải nhìn thấy cái ngực trần, vì đối với người Âu
Mỹ, nhất là phụ nữ Pháp, họ thích khoe thân hình có bộ ngực đẹp vào những buổi
hè ở bãi biển. Còn trường hợp nầy, giữa thủ đô Paris đầy tráng lệ lại có người
phụ nữ trẻ đẹp vạch vú cho con bú trước công chúng, thay vì nó chỉ xuất hiện ở
nhà quê hay nhà riêng. Hình ảnh người mẹ âu yếm con thật đẹp, đầy cảm động như
bức tranh sơn dầu "Tình mẫu tử" của danh họa người Mỹ Mary Cassatt
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, thuộc trường phái ấn tượng.
Đứa bé thấy vú mẹ chúi vào bú ngấu nghiến. Tôi thấy vài cặp mắt theo dõi
đều loáng ánh reo vui như chia niềm hạnh phúc.. Riêng tôi cũng cảm thấy bồi hồi
nhìn cháu bé đang hưởng một hạnh phúc tuyệt vời, đó là tình mẹ. Tôi lại miên
man hồi tưởng thời thơ ấu.
Xe ngừng trạm sau, ở những toa khác có rất nhiều hành khách lên xuống,
nhưng toa tôi ngồi chỉ có một người khách lên tàu, đó là một bé trai, tuổi độ
lên tám, mái tóc vàng dợn sóng dài lỏa xỏa trên gương mặt hốc hác, xanh xao,
trông càng lem luốc! Em mặc ở trong một chiếc áo sơ mi, ngoài là chiếc len cũ
màu xanh rêu. Chiếc quần vải xám đậm đã sờn gối. Nếu được chăm sóc kỹ trông em
chắc sẽ khác, và khuôn mặt đầy nét thông minh sẽ kháu khỉnh hơn. Thương thay
chiến tranh đã cướp đi tương lai, hạnh phúc và tuổi thơ ngây của em!
Tàu chưa kịp đóng cửa khởi hành thì em đã nghêu ngao hát một bài ca của xứ
sở. Tôi không hiểu gì về lời ca, nhưng biết chắc em chưa biết nhiều về âm nhạc.
Em cố hát to cốt gây chú ý hành khách để xin tiền. Tiếng hát nghe não lòng, có
lẽ em đã khóc trong tiếng hát cho thân phận làm người! Nhưng lời ca đó đã loãng
trong sự hững hờ, vì hành khách ngày nào cũng nghe nên đã quá nhàm! Hơn nữa
trên các tuyến đường xe điện ngầm của Paris đầy rẫy những nghệ sĩ hát dạo, kẻ
bụi đời và hành khất. Mặc dù hát dạo nhưng những nghệ sĩ nầy chơi nhạc rất điêu
luyện, họ trình tấu rất nhuyễn những nhạc phẩm thời trang đang thịnh hành, và
nhiều bài giao hưởng. Sau khi chơi xong một hay hai bản nhạc, họ thường được
hành khách tặng cho ít tiền lẻ. Thỉnh thoảng cũng có những nghệ sĩ chuyên
nghiệp trình bày những buổi hòa nhạc giao hưởng cho khách bộ hành thưởng lãm.
Em bé hát xong, cầm chiếc lon đi dọc theo hai dãy ghế xin tiền. Hành khách
vẫn mải mê trên trang sách, hình như họ tảng lờ tiếng kêu thống thiết của em!
Riêng tôi cũng muốn tặng em ít tiền nhưng bản tánh Á Đông khiến tôi do dự! Sự
tế nhị không cho phép tôi móc tiền ra bố thí cho kẻ khác, khi mà mẹ con người
đối diện tôi cũng thuộc diện cậu bé nhưng đang làm một hành khách?! Tôi không
thể xúc phạm đến tự ái của bà, dù bà chẳng để ý đến những suy nghĩ của tôi. Để
tránh bối rối, tôi giả đò nhắm mắt ngủ khi em bé đến hàng ghế. Tôi cảm thấy
thèn thẹn khi khước từ lời van xin của em bé. Tôi bỗng lạnh toát vì dĩ vãng lại
chợt về: "Tôi đã từng bị đày gánh phân và bỏ đói trong tù, đã từng ăn củ
chuối, uống nước lã cầm hơi hay nhai những loài cỏ dại để đỡ đói….Và cũng từng
thèm những hạt cơm, mẩu đường, miếng tóp mỡ…Tôi đã chịu bao nhiêu mùa giá rét
nơi rừng sâu núi thẳm trong manh áo tả tơi! Nghĩ đến mà rùng mình về những ngày
khốn khổ ấy!".
Tiếng loảng xoảng những đồng bạc cắc rơi không đều nhau trong lon thiếc
nghe ròn rã như pha lê vỡ. Tôi mở bừng mắt thấy người thiếu phụ trẻ đang nhoẻn
miệng cười, còn em bé cúi đầu, mồm nói tiếng cảm ơn. Tôi liếc sang những hàng
ghế bên thấy mọi cặp mắt đều thò lõ đổ về phía bà. Họ quay lại nhìn nhau, không
nói gì nhưng chắc hẳn trong tâm tư mỗi người đều có chút bâng khuâng. Họ và tôi
không thể ngờ tiếng van xin của em bé lại được một người hành khất khác chia
xẻ.
Ôi! Quả thật chỉ có những kẻ khốn cùng mới thông cảm và thương nhau! Lá
rách đùm lá nát!
Đến trạm kế tiếp, người thiếu phụ ẵm con xuống, mọi người đều nhìn theo,
dáng mẹ con bà khuất sau phía cầu thang. Em bé hát rong đổi sang toa khác tiếp
tục hát bản nhạc quen thuộc. Riêng tôi lòng bồi hồi về hình ảnh những người tỵ
nạn Cọng sản ấy.Tôi lang thang vài đường phố, đầu miên man về những danh từ:
"chiến tranh, thù hận và tình yêu". Tôi đến sở mới chợt nhớ mình đã
bỏ quên thói quen ngồi café!
Đỗ Bình
No comments:
Post a Comment