TÌNH
ANH LÍNH CHIẾN.
NGUYỄN HOÀNG QUÝ
1. Hai năm cuối tiểu học và
bắt đầu vào trung học, khi đã bắt đầu biết nghe nhạc, tôi không thích bài hát
này. Từ ấu thơ, tôi đã nghe anh chị ở nhà chơi đàn mandolin và hát những bản
nhạc tiền chiến mà nhạc điệu và ca từ trong cảm nhận mơ hồ và non nớt của tôi
ngày ấy là “không chê vào đâu được”!: Hòn Vọng phu, Bến cũ, Thiên Thai, Trường
ca sông Lô, Hoài cảm…Do vậy, nghe bài này cũng như nghe Bức tâm thư của Lam
Phương, “Vài hàng gửi anh trìu mến…đi quân dịch là thương nòi giống”, như nghe
Lối về xóm nhỏ của Trịnh Hưng, “Về thôn xưa ta hát khúc hoan ca, ngọt hương lúa
tình quê thêm đậm đà…”.Lên sinh viên, những bài hát này chúng tôi liệt vào dòng
nhạc lính, nhạc sến!
Vài năm trước cho đến lúc
này, bài này tôi hát nhiều, lâu lâu hát lại, chàng con rễ bảo “Ông bố rền
rỉ nhạc sến hoài!”. Khi hát, tôi nói với vợ lý do và kể cô ấy nghe
những kỷ niệm gắn bó với mình. Đó là sáng tác của nhạc sĩ Lam Phương: “Tình Anh
Lính Chiến”.Thật lòng thì hồi tiểu học tôi không hiểu nổi câu đầu: “Xuyên lá
cành trăng lên lều vải”, chưa bao giờ đi trại, có nghe ai nói đến cái lều bao
giờ, làm gì đã biết đến “Uncle Tom’s cabin” của Harriet Beacher Stowe và cứ
tưởng “lá cành” là… danh từ, có lúc nghĩ cái cành đâm xuyên khóm lá!
Học đệ thất, nghe kể thầy
Võ Hành dạy Lý Hóa ở trường thương chị Xuyên học đệ tứ. Hồi đó nữ sinh đệ tứ
lớn lắm. Thế là anh chị lớp lớn nhại rằng “Xuyên với Hành thương nhau nhiều
quá!.
Thời sinh viên, tôi trọ học
ở Cư xá sinh viên Huỳnh Thúc Kháng của hội Ái hữu Đồng châu Quảng Nam dành cho
SV trong Quảng ra Huế học. Năm 1973, một trận bão lụt không lớn nhưng cũng làm
hư hại nhiều nhà dân ở các quận Duy Xuyên, Đại Lộc (hồi đó không gọi là huyện
như bây giờ). Ở Duy Xuyên, nặng nhất là vùng gần Trà Kiệu, thánh địa ngày xưa
của vương quốc Champa. Sinh viên cư xá chúng tôi về đó giúp dân sửa chữa, dọn
dẹp nhà cửa,vườn tược và nhận tôle, cement, tiền của ty Xã hội Quảng Nam về
phân phát cho đồng bào. Cùng đi với chúng tôi có cả các bạn dân Quảng ở cư xá
Nam Giao, Đội Cung, trường Cán sự Y tế, trường Nữ Hộ sinh Quốc gia Huế làm
thành một đoàn hơn ba mươi người.
Sau mấy ngày hăng say làm
việc với tinh thần thiện nguyện, chúng tôi khá bằng lòng với thành quả của mình
và chiều cuối cùng xuống Hội An để sáng hôm sau về lại Huế. Tối, tổ chức đêm
lửa trại chia tay các bạn ở các cư xá khác. Không cắm trại nhưng một đống lửa
đốt ngay trên bãi cỏ ngoài sân ty Xã hội Quảng Nam cũng tạo được cái không khí
bập bùng làm giảm cái se lạnh của những ngày cuối Đông năm ấy. Và ở đây, đến
cuối buổi sinh hoạt, nếu hát bài Shalom Chaverim hay Rời tay phút chia ly, bạn
ơi vui lên nhé thì cũng… vô cùng thích hợp!. Anh Chủ tịch Cư xá cũng là trưởng
đoàn tổng kết chuyến đi cứu trợ, cám ơn các bạn tham dự đợt này rồi chúng tôi
cùng hát, những bài dân ca, những bài hát cộng đồng phổ biến ngày ấy.
Đang ngồi thành vòng tròn
vừa vỗ tay vừa hát tôi nghe có ai vỗ vai mình từ phía sau. Ngoái đầu nhìn lại,
đứng sau tôi là Hồng Vân cười và nói nhỏ vào tai tôi: “Mai nếu đời ngăn
chia ngàn lối, đừng quên nhé những ngày bên nhau Q. nhé!”. Vân nói cả
thành lời lẫn bằng mắt. Cái tâm trạng những ngày vui, sống hết mình với công
việc và bạn bè đã qua và phải chia tay, thật buồn. Tôi lặng người, cầm tay em
bóp nhẹ và gật đầu. Có thể nói gì hơn trong lúc này và mọi lời nói đều thừa
hoặc không cần thiết.
Hồng Vân dân Hội An gốc,
học năm cuối NHSQG, khuôn mặt sáng rưng, đôi mắt to, tròn và biết nói. Những
dịp sinh hoạt chung trước đó chúng tôi quen rồi thân nhau nhưng chỉ dừng lại ở
liên hệ bạn bè vì lúc đó tôi đang có người yêu. Không thể kết luận đều này chở
theo tín hiệu gì nhưng tình cảm tự nhiên và chân thành của Hồng Vân làm tôi rất
xúc động.
Ra trường, chúng tôi mất dấu nhau cho đến bây giờ nhưng “những ngày bên nhau”
thì khó quên được dầu “đời (đã) ngăn chia ngàn lối”. Bài hát theo tôi những khi
nhớ về kỷ niệm thời đi học đã qua gần nữa thế kỷ.
Kỷ niệm riêng tư, không kể
làm gì nếu không có một việc khác liên hệ đến nhạc phẩm này.
2. Năm 2014 tập 1 của cuốn
sách Ride The Thunder (A Vietnam War Story Of Honor and Triumph) của Richard
Botkin, bản Việt dịch của nhóm 4 dịch giả Lý Văn Quý, Nguyễn Hiền, Nguyễn Hoàng
Diệu và Trịnh Bình An tựa đề là Cưỡi ngọn sấm (Một câu chuyện về vinh dự và
chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam) xuất bản ở Mỹ (*).Chuẩn tướng James Joy
TQLC Hoa Kỳ đã về hưu viết trong lời tựa như sau: “Câu chuyện của hai
người chiến binh vĩ đại (đại úy Riply và thiếu tá Lê Bá Bình, hai nhân vật
chính có thật của quân chủng TQLC) cùng phục vụ cho một mục đích chung thật là
hiển nhiên. Nếu đã có thêm nhiều người như Lê Bá Bình thì chắc chắn kết quả của
cuộc chiến đã khác hẵn”. Đại tướng Walter E. Boomer TQLC Hoa Kỳ hồi hưu
cũng viết trong lời giới thiệu cuốn sách này “…”Cưỡi ngọn sấm” là một câu
chuyện xứng đáng được chia sẻ với các thế hệ tiếp nối của nước Mỹ, đặc biệt là
người Mỹ gốc Việt. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giúp họ hiểu được cái giá mà
cha ông họ phải trả nhằm bảo tồn nền tự do mà ngày nay họ đang được hưởng”.
Sau 12 năm bị tù ở VN, Lê
Bá Bình định cư ở Mỹ. Trong lễ nhận huy chương Silver Star của TQLC Mỹ, “huy
chương cao quý nhất dành cho quân đội đồng minh về những công trạng ngoài mặt
trận”, Bình gặp, quen biết và trở thành bạn thân của tác giả, cũng là cựu thiếu
tá TQLC.
Chuyện của Bình là niềm phấn khích để tác giả bỏ thì giờ sưu tầm tài liệu về
chiến tranh VN, phỏng vấn hàng trăm nhân vật liên quan và đi thực tế ở VN nơi
xãy ra các trận giao tranh đề cập đến trong tác phẩm. Có lẽ nhờ vậy nên tôi hơi
bất ngờ khi đọc được ở chương 3, tập 1 (Đại úy Ripley- Đại đội Lima) trang 57,
58, 59 nói về nền âm nhạc cận đại VN thời đó, như một người trưởng thành yêu
thích âm nhạc và sống ở miền Nam. Tác giả viết: “Từ năm 1962 trở về sau, âm
nhạc được phát triển cùng với nhịp độ ngày càng gia tăng của cuộc xung đột.
Giọng ca ủy mỵ và diễn xuất tuyệt vời của Hoàng Oanh trong bản “Tình Anh Lính
Chiến” (The Love of a Fighting Man) được biết đến và ghi khắc trong lòng của
mỗi quân nhân cũng như những phụ nữ đang chờ đợi họ. Trong bài hát, người lính
đi chiến đấu ngoài mặt trận và người yêu thì ở lại hậu phương. Trong màn đêm,
chàng trai ngắm trăng tròn và tự hỏi, giống như mọi chiến binh khắp nơi, không
biết người yêu có đang ngắm cùng một vầng trăng với mình hay không?”.
Ở một đoạn khác, tác giả
khen ngợi thêm: “Đối với những người Mỹ yêu nước thuộc thế hệ xưa, những người
thích trung sĩ Barry Sadler với bài “Ballad of the Green Berets” nếu như họ
biết thì có lẽ “Tình Anh Lính Chiến” sẽ hấp dẫn và quen thuộc với họ hơn”.
Về giòng nhạc miền Nam
1954- 63, các tác giả đã đề cập trong nhiều bài viết nhưng mang tính chuyên
môn, có hệ thống và giá trị khái quát cao thì tôi chưa đọc được. Dù sao thì
những gì Richard Botkin đề cập đến trong Ride The Thunder cũng giúp độc giả
ngoại quốc và cả người Việt thế hệ sau biết thêm về chế độ Cộng Hòa, cách
riêng, nền nhạc Việt giai đoạn đó.
Với những người miền Nam sinh vào thập niên 1940-50, được đọc tác phẩm này là
được sống với những năm tháng hào hùng, được nhắc nhớ những kỷ niệm về những
người lính của một binh chủng oai hùng: Thủy Quân Lục Chiến. Tác phẩm đáng được
làm tài liệu tham khảo khách quan của một tác giả ngoại quốc cho những ai
nghiên cứu quân sử sau này. Với người viết, đây là một bản anh hùng ca rất đáng
dành thì giờ để đọc.
NGUYỄN HOÀNG QUÝ
(*) Tập 2 đã phát
hành đầu năm 2016. “Cưỡi ngọn sấm” cũng đã được đạo diễn Fred Coster dựng thành
phim và chiếu ra mắt tại Wesminster, CA 3/2015.
No comments:
Post a Comment