VÀI SINH HOẠT VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PARIS
Đỗ Bình
Đề Tài:
"Ý Nghĩa Cuộc Sống Của Loài Người "
"Những Điều Huyền Bí Về Sự Sáng Tạo Vũ Trụ"
"Sự Bảo Tồn Văn Hóa Việt Nam tại
Hải Ngoại"
Khách mời tham dự là những khuôn mặt trí thức quen thuộc trong giới Văn Hóa
Việt Nam Paris.
Mở đầu chương trình BS Nguyễn Bá Hậu, vị niên trưởng, cựu chủ
tịch CLBVHVNParis, ông tường trình sơ lược về sinh hoạt văn hóa của CLB trải
qua một khoảng thời gian dài mấy thập niên: "Chúng
ta sống ở hải ngoại đã 40 năm. Về vấn đề văn hóa, tôi xin chia làm hai mức: hai
mươi năm đầu, Ba Lê Thi Xã (BLTX) gồm những nhà thơ lão thành khoa bảng, những
nhà trí thức ở Việt Nam di cư sang Âu Châu, rất nổi tiếng về thơ Đường, nhưng
bây giờ tuổi đã quá cao, họ chết gần hết chỉ còn lại một vài người thôi như nhà
thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Quỳnh Liên Cao Văn Chiểu, tôi, và Đỗ Bình
là người trẻ nhất. Chúng tôi cũng nghĩ xa là BLTX sẽ thiếu hội viên vì họ qua
đời cả, sẽ có ít người làm thơ Đường nên chủ trương thành lập CLBVH mà chúng ta
được họp mặt sinh hoạt như bây giờ. Hơn hai mươi năm nay rồi, CLBVH mở rộng tầm
hoạt động ra đủ thể loại: thơ, thơ tự do, văn, nhạc, hội họa… để các nghệ sĩ
khác đều được tham dự. Nếu muốn tìm hiểu về BLTX ở giai đoạn thứ nhất thì tôi
biết được nhiều, sẽ cố vấn cho những ai muốn biết, còn về CLBVH ở giai đoạn thứ
nhì thì ai cũng biết rồi, nó dễ hơn
Bác sĩ Phan Khắc Tường, chủ tịch Câu Lạc Bộ ngỏ
đôi lời: "Chúc mừng quý quan khách và các bạn một năm mới nhiều hạnh
phúc và sức khỏe. Tôi ước mong: Sẽ có những buổi họp mặt để chúng ta được dịp hội
thảo, hàn huyên trao đổi văn hóa...".
Nhà thơ Đỗ Bình cựu chủ tịch CLB, cũng là MC trong chương trình, cho biết
những dự định của CLB trong tương lai sẽ tổ chức giới thiệu những buổi ra mắt
sách trong đó có Nhà văn Toàn Phong Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Nhà văn Nguyễn Hữu
Nhật, Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Học giả BS Trần văn Tích…v.v..
Mở đầu phần thảo luận: Ý Nghĩa Cuộc Sống Của Loài Người, nhà thơ Đỗ Bình
đã đặt câu hỏi:
"Theo những tài liệu được ghi lại
trong sách, trái đất được hình thành từ Tinh Vân Mặt Trời cho đến nay khoảng
4,54 tỷ năm. Con người xuất hiện trên
trái đất rất từ 250 ng àn năm,
nhưng Ai sinh ra ta con người?".
BS Nguyễn Bá Hậu xin phát biểu trước:
" Theo tôi đây là một đề
tài rộng lớn. Con người là một thành phần của vũ trụ. Muốn biết ai sinh
ra ta thì ta phải biết ai tạo dựng ra vũ trụ hay là vũ trụ được tạo dựng như thế
nào?... Và mọi sự xảy ra trong vũ trụ đều là huyền bí... Những người theo Thiên
Chúa giáo nhờ có Thánh kinh mà biết được nguyên nhân làm ra những điều huyền bí
về việc tạo dựng vũ trụ..." (Sách Sáng Thế- Genèse).
Nói về
tôn giáo tín ngưỡng là nói về Đức Tin, đó là theo quan niệm của mỗi người, do sự
dạy dỗ và truyền thống đã có sẵn trong gia đình hay do sự tìm hiểu riêng biệt của
mỗi cá nhân. Giáo sư Trịnh Khải giải thích rằng:
" Theo Hippocrate le Grand (460-370 trước J-C): Từ lúc sinh ra,
con người chúng ta lúc nào cũng có thể nhiễm mọi thứ bệnh. Và bệnh tật
là con đường hay phương tiện dẫn đến cái chết. Trong lúc học hỏi hay mong chờ sự
giúp đỡ bên ngoài, con người thật vô dụng. Trong lúc đang lớn, nó vừa yếu vừa
thiếu đức hiền". Theo Blaise Pascal (1623-1662): Nếu có Trời,
Người sẽ vô cùng tận không thể hiểu
được đối với kẻ phàm tục. Vì không thể đo lường, không có kích thước, Người không
có dính dáng gì đến chúng ta. Chúng ta không có khả năng để biết Người
là thế nào, kể cả Người có thật không. Sự thật là thế, ai có thể giải
quyết câu hỏi trên? Chắc chắn không phải chúng ta vì chúng ta phàm tục chẳng có
bang giao gì với Người. Đức Phật lại
nói rằng: "Tất cả sinh đều đi đến tử" từ vạn vật cho đến
các ngôi sao sáng trên vòm trời rồi cũng sẽ tan rã. Và "Trong sự sinh,
sống, lão, tử của con người không có thánh thần nào can dự vào..."
BS
Nguyễn Bá Hậu đáp lời Giáo sư Trịnh Khải:
"Quan niệm về Phật học khác với Công Giáo. Theo Công giáo con người ta có
hai phần là phần xác và phần hồn. Nói về đau khổ, phần xác không lâu dài chỉ có
trên 80 năm là hết, còn phần hồn là vĩnh cữu. Vậy con người ta sống ở đời này đều
tạm bợ cả. Tạm bợ để thử thách xem giá trị của linh hồn mình ra sao. Muốn thử
thách phải có đau khổ. Có đau khổ mà mình thắng được, giữ cho linh hồn trong sạch
thì mới được vinh quang đời sau". Sau khi đọc bài tôi viết, có nhiều người
hỏi tôi rằng: " Nếu Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa thì tại sao ta không nhìn
thấy mặt Thiên Chúa, làm thế nào mà tin được?"
Nhà thần học TS Nguyễn Tấn Phước
cho rằng:
"Tại sao ta không thấy Thiên Chúa nhưng ta lại tin Ngài? Tất cả những
điều đó qui tụ trong sách Sáng Thế, khi xưa trong Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đối
với ông Adong và bà Evà như trong một gia đình, nhưng từ khi có tội tổ tông và
tội bất phục tùng. Tổ tiên ta đã bị kết án bởi nguyên tội và tội lỗi ban đầu dẫn
đến bị tước đoạt con người nhìn thấy Thiên Chúa. Tại sao có đau khổ? Vì tội lỗi
ban đầu mà Thiên Chúa lên án con người. Người đàn ông phải chịu đau khổ để tồn
tại và người phụ nữ phải chịu đau khổ để sinh con, chia sẻ giữa các thế hệ, tội
lỗi được truyền đạt cho nhân loại. Sự đau khổ theo loài người cho tới chết tất
nhiên luôn luôn một mình. Tất cả mọi người được sinh ra một mình, chịu đựng một
mình và chết trong cô đơn ..."
Bà TS Từ Thu Hương góp một vài cảm nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của những người
ngoại đạo: "Không theo một tôn giáo nào, chỉ tự tạo cho mình một ý
nghĩa riêng biệt mà họ cho là phù hợp với nếp sống của họ như đại đa số người
tích cực đóng góp vào công cuộc xây dựng hạnh phúc gia đình ; những nhà từ thiện
tìm kiếm phương tiện để trợ cấp, cứu giúp người nghèo đói khổ đau ; giới y dược
chữa trị bệnh nhân, khảo cứu y khoa để khắc phục các chứng bệnh nan y... Rất
nhiều trường hợp của biết bao người theo đuổi những ý nghĩa tốt đẹp ở trên đời
tựu chung là đi tới lòng thương yêu gia đình, đồng loại... Ngược lại, cũng có
những người theo đuổi ý nghĩa đời sống của họ trong những ước muốn xấu xa như
tham lam vật chất, tiếm đoạt của cải... Trường hợp của nhà thơ Charles
Baudelaire (1821-1867) chọn sự sống sa đọa đam mê tửu sắc diễn tả trong tập
thơ "Les Fleurs du Mal". Theo Baudelaire, trong thâm tâm của mỗi người
lúc nào cũng có sự hiện hữu của hai đòi hỏi trái ngược: sống khắc khổ lành mạnh
theo điều răn của Thiên Chúa hay sống dễ dàng trong lạc thú tội lỗi như quỉ
Satan. Đời sống của nhà thơ này bị ray rức giữa an lạc tâm hồn và khổ đau nhức
nhối. Rút cục ông bị rơi vào con đường sa ngã bùn lầy vì ông chỉ thấy cái đẹp
trong sự đồi trụy..."
Linh mục Nguyễn Văn Hội thuật lại một buổi nói chuyện trao đổi với một vị
tu hành Phật giáo và sau khi xem một vài quyển sách liên quan đến Phật giáo đã
có đôi dòng suy tư về ý nghĩa của hoa sen cùng việc giải thoát của con người.
Linh mục phát biểu:
"...Sen mọc lên từ bùn. Mà bùn
thì hôi tanh, dơ bẩn. Thế nhưng dù trong bùn, sen cũng không bị nhiễm cái hôi
tanh của bùn, trái lại sen vẫn đẹp rực rỡ thơm ngát. Theo giáo lý Phật giáo, điều
hệ trọng để có thể giải thoát là ở việc hướng về Tâm, làm chủ được Tâm và chuyển
hóa Tâm. Bởi vì Tâm là Phật. Mỗi người cần phải tự mình cố gắng vươn lên, tu
luyện làm cho Phật tính nơi mình lớn dần lên từng ngày, để thoát khỏi những
gì là "hôi tanh" của cuộc đời, của thân phận con người, giống như hoa
sen vươn lên khỏi mặt nước thoát cảnh bùn nhơ để trở thành thơm tho, tinh khiết.
Theo giáo lý Công giáo, việc giải thoát khởi đầu bằng việc Ngài xuống trần gian
qua mầu nhiệm Nhập Thể, mang thân phận con người và sau khi chịu chết trên thập
giá, Ngài đã lên trời về nơi vĩnh hằng nhưng điều đặc biệt là Ngài không lên một
mình mà kéo theo mình tất cả những ai tin vào Ngài..."
TS Võ Hùng Anh phát biểu : "Theo một tài liệu vừa thu thập: "Về căn
bản tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta không có cách nào có thể so sánh Phật Giáo với
Ki Tô Giáo được. Lý do rất đơn giản, vì Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ, mà
trí tuệ thì không thể tách rời “Lý Trí” [Reason]. Đại Học Vạn Hạnh trước đây có
“motto”: ‘Duy Tuệ Thị Nghiệp’.
Còn Ki Tô Giáo thì ai cũng biết đó là tôn giáo của “Đức Tin” [Faith]. Vậy
thì trước hết chúng ta cần phải biết định nghĩa của Đức Tin và của Lý Trí.
Theo H. L. Mencken thì “Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief
in the occurrence of the improbable.) Còn theo Tự Điển thì “Đức Tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” [Faith is the
firm belief in something for which there is no proof].
Trong tự điển có 2 định nghĩa của Lý Trí: “khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý hoặc phân biệt” (The capacity of rational thought, inderence, or
discrimination), và “suy xét đúng,
phán đoán hợp lý” (Good judgment, sound sense)”.
Nhà văn Đỗ Bình:
"Trong Ý Nghĩa về Cuộc Sống của Loài Người, các vị đã nói đến Đức Tin,
Cái Tâm ; Phật Tính, và những người không theo một tôn giáo nào mà chỉ tự
tạo cho mình một ý nghĩa riêng biệt phù hợp với nếp sống của họ, nhất là nói về
ý nghĩa của hoa Sen, xin hỏi : Thế nào là Thiền ?"
Giáo
sư Trịnh Khải trả lời câu hỏi của nhà văn Đỗ Bình:
"Nếu tìm hiểu đến tận nguồn gốc, ta có thể hiểu cuộc đời Đức Phật chia
làm ba giai đoạn: Giai đoạn cuộc sống gia đình, giai đoạn đi tầm Đạo để tới tột
đỉnh về Thiền Yoga, giai đoạn thứ ba nhờ nắm vững phương thức Thiền Yoga, Đức
Phật tìm ra phương thức Thiền Đạo Phật để đi đến Niết Bàn rồi đến Giác Ngộ. Có
hai lối Thiền là Hata Yoga và Raja Yoga...".
Nhà thần học Nguyễn Tấn Phước cũng
cho biết thêm có một lối Thiền của Nhật Bản là Thiền Tọa.
Tiếp theo phần phát biểu của
Giáo sư Nguyễn Quang Riệu.
Giáo sư Nguyễn Quang Riệu, nguyên là Giám đốc Nghiên cứu danh dự Trung tâm Quốc gia
nghiên cứu Khoa học Pháp (CNRS), Đài Thiên văn Paris. Chuyên gia về Thiên văn vô tuyến và các chất hữu cơ trong vũ trụ. Năm
1973, ông đã được giải thưởng của Viện hàn lâm khoa học Pháp cho công trình
nghiên cứu Cygnus X3 trong chùm sao Thiên Nga (Cygnus), cách trái đất 30.000
năm ánh sáng. Ông còn là tác giả nhiều tác phẩm thiên văn học bằng Việt ngữ
như: Vũ trụ-Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, Lang thang trên dải Ngân Hà,
Sông Ngân khi tỏ khi mờ, Bầu trời tuổi thơ v.v.. Con Người Đối Mặt Với Vũ Trụ
(l'Homme face au Cosmos) . Giáo sư Nguyễn Quang Riệu bằng một giọng nói nhỏ
nhẹ, trầm ấm:
"Tôi xin mượn mấy lời của nhà văn học Pháp
Henri Poincarré: "La pensée n'est qu'un éclair au milieu d'une longue
nuit. Mais c'est cet
éclair qui est tout". Tôi tạm dịch: "Tư duy chỉ như một tia chớp
trong cả một đêm dài. Nhưng chính tia chớp này là tất yếu". Dù tia chớp
không có ý nghĩa gì cả nhưng chính là con đường mình phải đi còn thật dài.
Không có tia chớp này thì nhân loại không tiến được. Ngoài mắt thường ta nhìn
thấy, còn có những ánh sáng mà mắt ta chỉ nhìn thấy được một phần rất nhỏ trong
phổ điện từ như: tia bức xạ gamma, quang tuyến X, tia tử ngoại ultraviolet, tia
hồng ngoại infrarouge… được ứng dụng vào các ngành y tế, hóa học, vật lý, xây dựng,
dầu khí, cơ khí v.v. Do đó, các nhà thiên văn phải làm ra kính thiên văn như:
kính thiên văn quang học (optical téléscope), kính thiên văn radio (radio
téléscope) hay ăng-ten ra-đa… để thu được các bức xạ vô tuyến và nhìn thấy được
chi tiết các thiên thể trên trời. Khởi đầu Vũ trụ là một hạt cực kỳ nhỏ và nóng
đặc, thuộc về một môi trường "chân không lượng tử" (vide quantique),
khoảng chân không này không phải hoàn toàn trống rỗng mà là nơi có những hạt ảo
(particules virtuelles) xuất hiện đột biến bất thường. Sự chuyển động trong
chân không của những hạt ảo này sản sinh ra rất nhiều năng lượng để tạo nên một
lực đẩy vô cùng mãnh liệt làm Vũ trụ bỗng phình ra khoảng 10-35 giây sau Vụ Nổ Lớn
(Le Big Bang). Hiện tượng lạm phát (phénomène d'inflation) này chỉ kéo dài
trong vòng 10-3 giây nhưng đã làm thể
tích Vũ trụ tăng lên 1078 lần trong vòng một miligiây! Để so
sánh, sau thời đại lạm phát, thể tích của Vũ trụ chỉ tăng lên có 109 lần
trong suốt 13,82 tỷ năm tuổi. Sau khi Vụ Nổ Lớn diễn ra, nhiệt độ tăng lên vô
cùng nóng tạo điều kiện cho electron bị tách ra khỏi hạt nguyên tử và khuếch
tán photon (ánh sáng) ra tứ phía làm Vũ trụ nguyên thủy mờ đục. Phải đợi đến
khoảng 400.000 năm sau, nhiệt độ nguội dần xuống tới khoảng 3.000 độ K, các
electron lúc đó mới tái hợp được với ion và Vũ trụ không còn bị electron tự do
khuếch tán nên trở thành trong sáng. Như vậy, giải thích sự hình thành và phát
triển của Vũ trụ được tạo ra từ một Vụ Nổ Lớn. Những mô hình vũ trụ mô tả nguồn gốc
và sự tiến hoá của Vũ trụ đã được xây dựng trên những kết quả quan sát thiên
văn và những lý thuyết vật lý phức tạp. Sở dĩ những điều kiện tự nhiên trong Vũ
trụ nguyên thủy được điều chỉnh tinh tế, nên có các nhà khoa học nảy ra ý kiến
là có sự can thiệp của một thực thể tương tự như một Đấng Sáng tạo. Hiện tượng
này tỏ ra thích hợp với tư tưởng của những tôn giáo độc thần, như Kitô giáo, Do
thái giáo và Hồi giáo. Ngược lại, khái niệm sáng tạo không phù hợp với tư tưởng
Phật giáo. Đạo Phật được coi là một tôn giáo không có Thượng đế, thậm chí chỉ
là một thuyết triết học. Phật tử phải sống theo đạo lý của Phật giáo để được
giác ngộ và thoát ra khỏi vòng luân hồi liên miên đầy đau khổ. Theo Phật giáo,
Vũ trụ không có khởi điểm và cũng không có kết thúc. Tư tưởng này hoà hợp với
thuyết đa vũ trụ, cho là có nhiều vũ trụ bong bóng vĩnh hằng và bất di bất dịch,
không trải qua trạng thái nóng đặc của thuyết Vụ Nổ Lớn. Tuy nhiên, tín ngưỡng
là lòng tin thâm thúy của mỗi người và không cần phải được biện hộ bằng những
chứng cứ khoa học. Tôn giáo và khoa học đi theo những con đường song song với
nhau mà không bao giờ gặp nhau".
Mỗi người mỗi ý nghĩ, tựu trung đều đưa ra
nhiều thắc mắc, khoa học và tôn giáo có liên quan với nhau hay không?
GS Nguyễn Bảo Hưng phát biểu:
"
Khoa học giải thích cho chúng ta biết sự hình thành và phát triển mà sinh ra mọi
vạn vật nhưng hạt nhân do từ đâu ra? Tôn giáo và khoa học là hai con đường song
song cùng nhau. Là một nhà nghiên cứu khoa học có bao giờ GS bước sang lĩnh vực
tôn giáo để đặt vấn đề khoa học nghĩ rằng tôn giáo mang một dạng khác?".
Giáo sư Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Cái
đó thuộc về lĩnh vực Neurologie để cho người ta nghiên cứu hoặc là tâm linh.
Theo ý tôi, người Pháp nói: "L'Un n'empêche pas l'autre" tức là khi
chọn khoa học thì cứ nghiêng về khoa học. Tôi cũng tin, cũng đi chùa chứ không
phải là tôi phủ nhận. Người vô thần có thể là một nhà khoa học rất tốt hay ngược
lại".
Gs Trịnh Khải góp ý:
"Phật
giáo đặt căn bản trên hai chữ vô thủy và vô chung. Cho nên những cái gọi là
chân lý tương đối không phải là chân lý tuyệt đối, cũng không phải là chân lý tối
hậu. Đức Phật khuyên chúng ta con đường của người Phật tử là đừng tìm chuyện
cao xa mà phải tìm hiểu những điều ta sống hằng ngày, sửa đổi, tu tâm, để chuyển
cái nghiệp của cuộc đời mình theo luật nhân quả, nếu làm xấu trước sau cũng phải
trả. Câu nói của Đức Phật rất đơn giản: "Tout se paye et tout est
payé" (Đã mang nợ thì trước sau phải trả thôi). Cuộc đời của chúng ta nên
sống như vậy".
Nhà thơ Phương Du tiếp lời: "Quan niệm về nghiệp chướng tôn giáo
nào cũng có cả, tức là làm ác thì gặp đau khổ, làm lành thì gặp hạnh phúc.
Ngoài ra còn có sự huyền bí trong vũ trụ, các nhà khoa học chỉ nói con người ta
có ký ức, tư tưởng, trí thông minh nhưng không nói do ở đâu mà ra. Nếu chỉ nói
về vật chất, người ta sinh ra, sống rồi chết thì vô lý quá. Phần hồn cũng là
quan trọng. Phần xác là tạm bợ, phần hồn là vĩnh cữu. Tại sao không nghiên cứu
về đời sau?".
Phần hội luận vô cùng sôi nổi TS Võ Hùng
Anh, Linh mục Ngô Đình Sỹ, GS Trần Văn Thu cùng các vị khác có nhiều góp ý.
GS Trần Văn Cảnh
nêu ra nhiều câu hỏi:
"Những
khám phá về triết học cũng như về thần học, khoa học chưa đủ vì nó chỉ có hai
khái niệm về không gian và thời gian. Ngoài ra còn có những cái khác, bước nhảy
vọt vượt qua mà không dựa vào gì hết, nếu dựa vào biến đổi khoa học sơ đẳng thì
có vật lý biến đổi theo chuyển động, có sinh lý biến đổi theo sinh đẻ, có hóa học
tức là có những biến đổi theo phân tích và tổng hợp. Trong thế giới có những biến
đổi này, thì ta thấy qua và hiểu được. Và các khái niệm về không gian và thời
gian thì ta có hiểu được nhưng chưa giải thích hết được?".
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời: "Nhiều
khi tôi tự hỏi không cần tìm hiểu xa xôi trước khi sinh ra mình là gì, khi chết
mình ra sao? Có ai biết được không? Tôi thấy con người mình phải khiêm tốn
thôi, không thể nào biết được hết. Các nhà khoa học giỏi đến đâu thì giỏi mà
cũng không thể hiểu".
GS Trần Văn Cảnh: "Tiến trình
từ lúc có Vụ Nổ Lớn (Big Bang) cho đến bây giờ ta đang ở đây sau gần 14 tỷ năm
có những giai đoạn tiến trình nào khác? Trong tương lai giả dụ có tiến triển
nào chưa? Ước lượng giả sử những tiến trình trong tương lai, những điều đã biết
và những điều còn đang trong giả thuyết?"
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời: "Điều
mà các nhà thiên văn hiện giờ đã đánh giá vào độ tuổi của Vũ trụ là 13,7. Đó
cũng là một khoảng sai hay đúng thì không biết, nhưng người ta công nhận là
đúng. Khoa học tiến qua giai đoạn gọi là sai và đúng chứ không có tuyệt đối. Vấn
đề nan giải bây giờ người ta muốn giải quyết là thuyết Big Bang có đúng không?
Theo như ý thức chung chung của Einstein khi có một vật thể nào gây ra sự nổ
thì nó phát ra một làn sóng gọi là sóng hấp dẫn làm cho không gian và thời gian
cong như một làn sóng cảnh tượng như khi ta ném một vật gì xuống hồ. Vấn đề là
làm thế nào để phát hiện ra làn sóng đó".
Đỗ Bình
THU PARIS HỘI THẢO VĂN HỌC& NGHỆ THUẬT
Vào ngày 10 tháng 10 năm 2017 tại phòng Paris 13, một buổi hội thảo văn học
nghệ thuật với chủ đề: Sự Bảo Tồn Văn Hóa Việt Nam tại Hải Ngoại do
CLB Văn Hóa VN Paris tổ chức với sự tham dự của nhiều khuôn mặt quen thuộc trong
giới trí thức người Việt ở Paris. Mở đầu BS Nguyễn Bá Linh đọc chương trình hội
thảo, đồng thời mời nhà thơ Đỗ Bình chủ tịch Câu lạc Bộ VHVN Paris lên ngỏ lời,
ông đã phát biểu rất ngắn về ý nghĩa quan trọng của buổi sinh hoạt, sau đó đã
giới thiệu từng khuôn mặt những người tham dự, trong đó có những người đến từ
Đức Quốc. Điều hợp chương trình là BS Nguyễn Bá Linh và TS Võ Hùng Anh.
Tiếp theo GS Trần văn Thu giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Pháp 8000 Năm
Lịch Sử Việt Nam. Ông nói ai cần sách đó ông sẽ tặng. Vào tháng 10 năm 2016 ông
đã nói chuyện về đề tài này do CLB VH VN Paris tổ chức. Trong sách có rất nhiều
tư liệu ông đã nghiên cứu nhiều năm ở các sách Pháp, Mỹ mà người Việt không
biết. Những gì người Việt biết về lịch sử Việt Nam đã bị người Tàu xuyên tạc
rất nhiều!
Kế tiếp BS Nguyễn Bá Hậu là người cao niên tuổi đã 94 phát biểu:«Muốn giữ
gìn văn hóa thì Sự Tam Sao Thất Bổn trong văn học nghệ thuật cũng cần được thảo
luận».
GS Trịnh Khải phát biểu:
«Sau khi CS cưỡng chiếm VN, chữ khoa học Việt hoàn toàn ngưng
trệ. Chúng ta nên giữ lại gốc «latin» các chữ khoa học (toán học,
vật lý...... triết học ….xã hội học ...) như các nuớc văn minh : Mỹ, Pháp,
Đức, Anh …..vv.... vì nếu muốn dịch thì phải thành lập một ban chuyên môn, chứ
không thể chỉ dùng chữ Hán làm căn bản.
Ví dụ : Ở ĐH Văn Khoa Saigon, có ông đã dịch : hữu thể = être thì
không đúng theo Phật Đạo vì :
** hữu = có và thể = sắc (forme)
==> hữu thể = tất cả mọi vật nhìn thấy đuợc
** Theo
philosophie occidentale : être = người và động vật (les humains et les
êtres vivants) và les humains = étants (Heidegger)
Vì lý do trên
nếu tự mình chuyển ngữ bằng gốc Hán (ít ai hiểu) thì chỉ đem lại sự hiểu lầm mà
thôi nhất là V/Đ tôn giáo (Ví dụ : xin xem lại 02 chữ :la
réincarnation et la résurrection).»
Tiếp theo TS
Âm nhạc Trương Qùnh Hạnh trình bày và hát trích đoạn những thể loại dân gian
khắp ba miền: Quan Họ Bắc Ninh, Châu Văn, Sẩm , Ca Trù, Sa mạc, Nam
Ai, Hò Mái Nhị, Hát Bài Chòi, Hát Bội, Lục Vân Tiên, Dạ Cổ Hoài
Lang,Tứ Đại Oán, Vọng Cổ.
Bà phát biểu:«Về phương diện Nhạc Cổ Truyền Việt Nam chúng tôi nhận
xét: Những ngón đàn độc đáo của Đàn Đáy trong Ca Trù và Đàn Bầu cần phải được
bảo vệ và truyền lại cho các em học sinh, sinh viên ở các Nhạc Viện, những
người yêu thích âm nhạc cổ truyền Việt Nam kể cả người ngoại quốc». GS Quỳnh
Hạnh giải thích về Ngón Chùn và Thang Âm Sa Mạc, bà nói : «Đó là Ngón Chùn
tạo nên đặc tính của Ca Trù và tạo nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ sĩ ca cổ
truyền, ngâm thơ, đọc thơ ».
Bà nói tiếp:«Về phương diện kỹ thuật, trong âm nhạc quốc tế nói
chung, nhạc cổ truyền Việt Nam nói riêng, thông thường các Ngón Nhấn có khuynh
hướng đi lên, không bao giờ một Ngón Nhấn mà có cao độ bị chùn xuống. Thí dụ:
Nốt Sol nhấn lên nốt La, nốt Do nhấn lên nốt Ré nhưng trong kỹ thuật
Đàn Bầu và Đàn Đáy: Tạo ra một nốt Fa dùng điểm của nốt Sol. Đối với kỹ thuật
Đặc Biệt của Tính Năng Nhạc Cổ Truyền: Khi Nhấn Chùn xuống là tạo được Ngón
Chùn. Đặc Điểm của Ngón Chùn bắt chước ra được giọng người hát tuyệt
vời, có sức quyến rũ khá mạnh mẽ thu hút được trái tim người nghe và tạo được
nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ sĩ qua ngón đàn tài hoa của người nhạc
sĩ.» GS Quỳnh Hạnh nói thêm về Quảng Ba Trung Bình trong Ngâm Thơ Sa
Mạc, trong Ca trù, và Các Cung Giọng Đọc Kinh Công Giáo. »
BS Nguyễn Bá Linh đặt câu hỏi:
« Đất nước Việt Nam chúng ta không có Sa Mạc thế sao Thư Mục Ca Nhạc Cổ Truyền
lại có ngân thơ Sa mạc?»
GS Quỳnh Hạnh:
«Đó là do Việt Nam giao lưu với các nước Trung Cận Đông từ nhiều thế kỷ
trước. Khi tôi trình bày và minh họa qua tiếng hát trong các conférences có rất
nhiều người trong giới âm nhạc thuộc các quốc gia Trung Cận Đông, họ phát biểu:
«Tôi nghe Bà trình bày làn điệu này sao giống làn điệu thang âm ở nước chúng
tôi!»
Tôi trả lời: «Đặc Tính của Âm Nhạc: Quảng Ba Trung Bình tạo nên sự
Nhớ Nhà,Ttình Hoài Hương, nỗi Nhớ da diết cô đọng trong tim không
nói ra cùng ai. Có thể làn điệu này ở các nước Trung Cận Đông đã có sự giao lưu
văn hóa với Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước, những làn điệu âm nhạc nào phù hợp
với khiếu thẩm mỹ của dân tộc chúng tôi thì nó sẽ ở lại với chúng tôi mãi mãi.»
Nhà báo Hoài Châu Nguyễn Kim Long phát biểu:
«TS Quỳnh Hạnh đã khẳng định là ngâm thơ điệu SA MẠC ở Việt Nam chịu
ảnh hưởng từ những giao lưu người Ả Rập đến từ vùng sa mạc Trang - Á, tôi không
đồng ý với quan niệm này! Theo thiển ý của tôi: từ "sa
mạc" chỉ là cách nói, không liên quan đến những cuộc giao dịch
trong sa mạc của người Touaregs hay Berbères ở vùng Sahel châu Phi (Sahel hay Sahara
= sa mạc) hay người Ả Rập Hồi gíáo ở thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ XIII
vùng bán đảo Saudite ; còn vùng Trung Á chỉ có sa mạc Gobi không có người qua
lại! Thật ra chỉ có đoàn quân kỵ mã của Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt
người Mông Cổ là qua lại. Đó là thời kỳ nhà Nguyên cai trị Trung
Hoa và thua trận ở VN khi họ tính thôn tính Đại Việt nước ta. Đây cũng là thời
kỳ mà đoàn quân Mông Cổ đã theo con đường Tơ Lụa trong
cuộc viên chinh ở thế k ỷ XIII. Như vậy, lời ngâm "sa mạc" chỉ là lối
phân loại trong ngôn ngữ ở Bắc, cũng như điệu "Bồng mạc", tức
lối "lẩy Kiều", cộng với hai lối ngắm khác là Ru Hát và Ru
Nói. Như vậy, tôi xin thưa theo kiến thức thường tình-- như một
người không rành âm nhạc cổ truyền VN -- là điệu sa mạc không có ảnh hướng Ả
Rập. Nhạc là một ngôn ngữ đại đồng. Có khi tôi nghe người Hung Gia Lợi,
Basques, Lapons, hay Celtiques thối kèn tù và thì tôi tưởng giống
nhạc trỗi lên trong đám tang cha tôi ở miền Nam Trung Việt thuở nào».
Nhà thơ Đỗ Bình góp ý :
«Trong Tự Điển Hán Việt định nghĩa từ Sa Mạc như qúy bác và anh chị đã
biết, riêng Tự Điển Việt Nam còn ghi thêm: Làn điệu Sa Mạc.
Ở Paris mấy chục năm về trước những nghệ sĩ ngâm thơ rất hiếm, nhất làn
làn điệu Ca Trù, Ngâm Sa Mạc.
Về ngâm Ca Trù chỉ có GS TS Trần Văn Khê, GS nghệ sĩ Bích Thuận, nghệ sĩ Diệu
Khánh. Còn ngâm Sa Mạc Khá nhiều : GS Trần văn Khê, Đặng Trần Vận, Bích
Thuận, Diệu Khánh, Anh Trần, Linh Chi, Mỹ Hòa, Thụy Khanh, Thúy Hằng, Thụy
Hương, GS Phương Oanh, GS Trần Quang Hải, Đỗ Bình, Ngân Đoài. Những nghệ sĩ đến
Paris sau :, GS Quỳnh Hạnh ,GS Thanh Vân. Ngâm theo
điệu sa mạc phải theo luật. Tất cả
chữ cuối của câu thơ bằng dấu huyền thì phải ngâm ở nốt Do. Còn chữ cuối của
câu thơ bằng không dấu thì ngâm ở nốt Mi trung( tierce neutre), có
nghĩa là quãng ba ở chính giữa hai quãng ba thứ (tierce mineure) và quãng ba
trưởng (tierce majeure).»
TS Võ Hùng Anh phát biểu:
«Tôi xin góp thêm chi tiết về Làn Điệu Sa Mạc. Trong cuốn Hồi Ký của GS Trần
Văn Khê có ghi về Làn điệu sa mạc, tôi xin kể trích
đoạn » :
Trong cuốn Hồi Ký Trần Văn Khê, tôi xin trích đoạn kể:
« Điệu sa mạc của Việt Nam gần với điệu Sêgah của
Ba Tư và Sikah của Á Rập. Lần bắt đầu nghiên cứu nhạc Ba Tư
trên thực địa tôi mang theo cây đờn tranh và đã xin gặp ông Hormozi,
một nghệ nhân chuyên đàn sêtar, loại đàn nhỏ bốn dây của Ba Tư. Tôi
đờn cho ông ấy nghe, khi đàn sang hơi Sa mạc, ông ngạc nhiên nhận xét: «Hơi
này tôi nghe giống điệu Sêgah của chúng tôi quá! » Sau đó
ông lấy đàn ra biểu diễn điệu Sêgah. Ðàn xong ông hỏi:
- «Anh có thấy hai điệu giống nhau không? »
- Tôi trả l ời : Đúng, đặc biệt trong đoạn kết có chỗ giống
nhau là cùng có một quãng ba trung bình giữa thứ và trưởng mà chữ kết nhấn vào
bực trên của quãng ba đó.
Ông nói :
- Phải rồi, trong truyền thống nhạc Ba Tư chúng tôi gọi là
quãng ba Zalzal, vì từ thế kỷ thứ 8 Zalzal là người dùng quãng ba đó trước
nhứt. Vì vậy khi nghe Sa mạc tôi xúc động quá vì trong đó có nhiều quãng ba
Zalzal mà trong nhạc Ba Tư vẫn được dùng để diễn tả nỗi day dứt, mong chờ.»
BS Nguyễn Bá Hậu phát biểu:
« Nghệ thuật thì vô tận, còn Văn chương Việt Nam có nhiều tam sao
thất bản nói ra hàng ngày không hết cho nên hôm nay tôi chỉ chú trọng đề cập
đến vài ba khía cạnh sau đây:Tam sao thất bản trong tục ngữ ca dao, loại văn
chương này được phổ biến bằng lời truyền tụng cho nhau, nhất là dưới hình thức
ca hát làm cho dân chúng quá say mê về điệu hát nên ít để ý đến ý nghĩa của lời
ca. Vì thế mà có sự nhớ sai một vài danh từ nên ý nghĩa vô tình bị thay đổi:
Về ca dao bài người đi cấy:
«Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời trông đất trông mây,
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời trong biển lặng mới yên tấm lòng.»
Bài này được in ở trong sách giáo khoa Việt Nam Văn Học Sử Yếu, quyển một
của Dương Quảng Hàm.
Về vần điệu cước vận ở câu hai (bề) không vần với cước vận của
câu ba (mây). Sự lạc vận này làm mất giá trị nhạc tính của bài thơ.
Ta có thể dùng danh từ (bầy) thay thế cho chữ (bề) vì
ở nước ta cũng có nơi gọi bề tôi là bầy tôi cho
nên tác giả bài thơ này có thể là người địa phương dùng danh từ bầy tôi.
Về ý nghĩa chân cứng đá mềm không biết ý tác giả nói về người
đi cấy hay là cây lúa. Nói về cây lúa có lẽ đúng hơn, thân cây lúa có cứng có
mạnh thì mới mang được phần trên là lá lúa mà cây lúa có tươi đẹp thì lá mới
mềm, nếu thân cây lúa yếu thì lá sẽ rủ xuống đi đến thối nát.
Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng phát biểu :
« Ttheo tôi chữ Bề và Bầy trong bài ca dao Người Cây Lúa ý nghĩa khác
nhau: Bề: khoảng cách giữa hai mặt đối nhau của một hình.Thí
dụ : Bề mặt, Bề dầy. Còn có ý nghĩa khc diễn tả khía cạnh
phương diện của sự vật. Người ta thường bảo: Khổ cực trăm bề. Bốn bề
lạnh ngắt. Trong khi đó Bầy : có nghĩa là đám đông động vật cùng loài sống
với nhau. Thí dụ: Bầy Chim, bầy gia xúc. Từ Bầy khi nói về Người chỉ đám đông,
đôi khi hàm ý khinh bỉ: Thí dụ :Một bầy tham nhũng. Từ Bầy tôi
và Bề tôi đồng nghĩa: Chỉ người ở cươngvị thấp, làm tôi thời quân chủ.
Còn hai cữ Sa mạc thì tôi hiểu theo nghĩa là làn điệu ca du dương, êm đềm, lời
theo thể Lục Bát, như ca Huế có điệu Nam Ai, Nam Bình..và trong kinh của Cao
Đài giáo thường tụng theo giọng điệu Nam Xuân, Nam Ai,hay Đảo ngũ
cung.»
Nhà thơ nữ Từ Thạch góp ý:
« Tôi xin góp ý: Ttư tưởng trong bài nầy là nói lên ý chí
của con người. Bài ca dao có hai nhân vật: Người Ta và Tôi. ‘Tôi’ trong bài là
chủ điền có ruộng nên phải chú tâm đến việc này qua nhiều khía cạnh để đem tới
sự thành công.
Câu:«Trông...Trông… » dùng điệp ngữ chín lần để chỉ sự kiên nhẫn
nhưng vẫn phải cảnh giác trong mọi trường hợp của thời tiết. Bài Câu Chân cứng
đá mền: nói lên nghị lực. Bài Ca dao gồm nhiều hhình ảnh trong đó có: trời đất,
con người (người cấy lúa), đá(núi), gío, mây, mưa. Cảnh, vật và người hòa nhau
nhịp nhàng thành một bức tranh sơn thủy linh động. Bài Ca dao như một lời nhắc
nhở, muốn nung đúc cho mọi người Việt Nam phải có lòng tin ở chính mình, cố
gắng sẽ nên việc.»
GS Trần Văn Cảnh góp ý » :
« Tiếp lời Bs Nguyễn Bá Hậu liên quan đến vấn đề « Tam sao thất
bản trong tục ngữ ca dao », tôi xin góp vài ý tưởng vừa nhìn thấy. Tôi
đồng ý với Bs Nguyễn Bá Hậu rằng « Về vần điệu cước vận ở câu hai
(bề) không vần với cước vận của câu ba (mây) ». Nhưng
bảo rằng « Sự lạc vận này làm mất giá trị nhạc tính
của bài thơ. Ta có thể dùng danh từ (bầy) thay thế cho
chữ (bề) vì ở nước ta cũng có nơi gọi bề tôi là bầy
tôi », thì tôi e rằng Bs Hậu hơi quá khắt khe và vội vã ; Vì
rằng, theo mạch văn, thì dường như chữ « bề » đã được tác giả ý thức
và chủ ý chọn dùng, dẫu lạc vận, để tạo một hòa âm ngịch, làm đổi nhạc điệu,
làm tăng nhạc tính và thu hút người nghe và người đọc hơn. Chữ Bề là một chữ
thuần túy việt nam. Chữ Bề có nhiều nghĩa, như chiều hướng, chiều kích, như bề
cao, bề sâu, bề dài, bề rộng, .. thứ bậc, như bề trên, bề ngang, bề dưới,..
Trong bài ca dao này, chữ Bề có ý nghĩa là khía cạnh, lãnh vực, như câu
Kiều « So bề tài sắc lại là phần hơn », hay câu Kiều khác « Công
tư vẹn cả hai bề ».
Ngoài ra, cũng trong bài ca dao này, với « chữ trông » vừa có
nhĩa « trông thấy », vừa có nghĩa « trông mong », chữ
« nhiều bề » trong câu « tôi nay đi cấy còn trông nhiều
bề » còn có một ý nghĩa hành văn, giới thiệu những chiều hướng, những khía
cạnh, những lãnh vực nhận thức trông thấy được, từ khung cảnh trời
đất, qua những biến cố mây mưa gió, đến các sự kiện thời gian ngày đêm ;
và những chiều hướng ý chí hành động đạt được, từ ước nguyện tin
tưởng đến quyết chí rèn « cho chân mềm thành cứng », và biến
« đá cứng thành mềm ».
Nếu vì hình thức máy móc muốn tránh lạc vận mà lấy chữ « bầy »,
(theo ý nghĩa « bầy tôi ») thay vào, thì ý nghĩa của bài ca dao chẳng
những thành lủng củng, mà thâm chí còn sai lạc. Trong ba yếu tố mỹ học của thơ,
hai yếu tố chữ và vận là quan trọng. Nhưng yếu tố ý là quan trọng hơn cả.
BS Nguyễn Bá Hậu :
« Về khía cạnh thơ đường luật thất ngôn bát cú ta lấy mẫu bài thơ Làm
Lẽ của Hồ Xuân Hương in trong tập thơ của nhà biên khảo Phạm Trọng Chánh:
« Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm khi mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Muốn đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này nếu biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong. »
Bài thứ nhì khóc ông phủ Vĩnh Tường của Hồ Xuân Hương:
«Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.
Chôn chặt văn chương ba thước đất,
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.
Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc,
Giọt máu trên tay mỉm miệng cười.
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi.»
Về ý nghĩa bài thơ chính của tác giả là than khóc nhớ thương vị hôn phu lại bị
thay thế ở hai câu năm sáu bằng hai câu thơ sau đây:
« Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn khép lại rồi.»
Với hai câu thơ này ý nghĩa trang trọng không còn nữa. Vả lại theo ông Phạm
Trọng Chánh thời Hồ Xuân Hương làm bài thơ này ta chưa có cái cân có cán.
Về khía cạnh thơ lục bát số câu thơ tam sao thất bản quá nhiều nên tôi chỉ
xét đến hai câu thơ sau đây của Nguyễn Du trong truyện Kim Vân Kiều mới được
người ta cố ý thay đổi:
«Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời »
Chữ trời ở đầu câu được đổi bằng chữ đời làm
cho ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Du bị sai hẳn vì Nguyễn Du trong truyện Kiều là
một nhà thơ duy linh tin có đạo trời. Nếu đem chữ đời vào câu
thơ thì người ta cố ý biến Nguyễn Du thành nhà thơ duy vật chủ nghĩa. Thiết
tưởng nếu Nguyễn Du sống lại mà thấy hai câu thơ này thì cụ sẽ tự than vản cho
số mình chẳng cần phải đợi “tam bách dư niên hậu” nữa và dân chúng Việt Nam sau
này sẽ đổi câu ca dao Lạy đời mưa xuống lấy nước tôi
uống… Đời sinh đời dưỡng. Nhà thơ Nguyễn
Bính cũng vậy trong bài Tương Tư ông viết:
Gió mưa là bệnh của Trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Nay nếu người ta cũng đổi chữ trời ra chữ đời thì
hai câu thơ đó sẽ đọc như sau:
Gió mưa là bệnh của đời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Chắc nhà thơ Nguyễn Bính sẽ an ủi Nguyễn Du vì ở trong cùng một hoàn
cảnh. »
Nhà thơ Nhất UyênTS Phạm Trọng Chánh kể
Cuộc Tình Nguyễn Du Hồ Xuân Hương :
«…Sau khi GS Hoàng Xuân Hãn mất năm 1996, tôi đã dựa theo văn bản ông Bùi
Hạnh Cẩn là người được ông Trần Thanh Mại giao chép Lưu Hương Ký thành 5 bản,
ông đã chép một bản cho mình, chỉ sót một bài, tôi đã tiếp nối công trình còn
dang dỡ của Gs Hoàng Xuân Hãn.
Trong Lưu Hương Ký có bài thơ Hồ Xuân Hương
tặng Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu, hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân. Bài thơ cho
biết : Chữ tình chốc đã ba năm vẹn. Hai người yêu nhau trong
ba năm, đó là thời gian từ năm 1790 đến 1793, sau khi Nguyễn Du thành nhà sư
Chí Hiên đi giang hồ ở Trung Quốc về sống với anh Nguyễn Nể đang làm quan nhà
Tây Sơn tại Thăng Long, nhưng Nguyễn Du lại thường ở nơi Gác Tía, nơi nhà câu
cá cũ của anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân và Cổ Nguyệt Đường.gần đình làng
Nghi Tàm ngày nay. Hai người hàng xóm yêu nhau thường cùng đi hái
sen với nhau. Năm 1793 sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Nể được
cử vào dạy học cho vua Cảnh Thịnh mới lên mười. Nguyễn Du và em là Nguyễn Ức
được anh giao phó trọng trách về xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền bị phá
hủy năm 1790 sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh. Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du có
tiễn đưa nhau tại đình đá sông Vị Hoàng, làm thơ đối đáp nhau trong thời gian
này. Năm 1796, Nguyễn Du toan tính vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh đã
đánh tới thành Diên Khánh, Nha Trang, Nguyễn Du toan vượt biên vào Nam thì bị
trấn thủ Nguyễn Văn Thận bắt giam 3 tháng, ra tù Nguyễn Du trốn ra Thăng Long.
đến Hồ Tây thì hay tin Hồ Xuân Hương bị mẹ gả cho Thầy Lang xóm Tây làng Nghi
Tàm, Nguyễn Du viết hai bài thơ ký tên Chí Hiên oán trách nàng tệ bạc. Năm đó
Nguyễn Nể đi sứ về, mai mối cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em gái út Đoàn Nguyễn
Thị Huệ cho Nguyễn Du. Nguyễn Du về Quỳnh Hải dạy học cho đến khi vua Gia Long
lên ngôi đem quân ra Bắc truy đuổi vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Du chiêu tập học trò,
đem bò ngựa lương thực ra tiếp rước vua Gia Long, gặp tại huyện Phù Dung trấn
Sơn Nam, vua phong ngay làm Tri huyện nơi này, sự kiện giống như Phi Tử thời
Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung, nên
Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử, Nguyễn Hành bài Đi Săn có nhắc danh hiệu này.
Năm
1804 Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín, vợ mất, ông tìm về Cổ Nguyệt Đường gần
đó mong nối lại duyên xưa, thi Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công
Hòa, nàng đau ốm như nàng Tiểu Thành, xót thương Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu
Thanh Ký gửi nàng. Hai chữ Tố Như hiểu là Nguyễn Du là vô nghĩa, vì 6 câu đầu
viết về nàng Tiểu Thanh, tự nhiên hai câu cuối tự hỏi ai khóc mình là lạc đề,
vô nghĩa, nếu Nguyễn Du muốn ai khóc mình thì sẽ nói : Ngàn năm sau ai
nhắc đến ta ? : Bách Tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà
nhân khấp tố như. Tra tự điển Thiều Chửu : tố là tơ trắng là người (
phụ nữ) phẩm hạnh cao quý, như là như thế như vậy.
Hiểu : Không biết rồi đây ba trăm năm nữa , Ai khóc người phẩm
hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh thì hoàn toàn phù hợp với ý sáu câu
đầu bài thơ. Hai chữ Tố Như chỉ xuất hiện duy nhất trên bài Độc Tiểu Thanh Ký,
do đó tôi cho rằng con cháu đời sau khi viết gia phả không hiểu mối tình Nguyễn
Du Hồ Xuân Hương nên đoán bừa Tố Như là bút hiệu. Các người được thuê chép văn
bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ chổ nào nghi là Nguyễn Du cứ chép vào hai chữ
Tố Như. Ví dụ thơ viết cho anh Nguyễn Du đêè Ức Gia Huynh, viết cho em Ngô Gia
Đệ cựu ca cơ. Thơ Nguyễn Nể viết cho em lại đề Hoài Thanh Hiên Tố Như Đệ, không
ai viết cùng một lúc hai danh hiệu. Hồ Xuân Hương sau khi nhận được bài Độc
Tiểu Thanh ký đã bỏ Tổng Cóc trở về làng Nghi Tàm, nàng có viết bài Chơi Tây Hồ
Nhớ Bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký.
Năm 1813 Nguyễn Du làm Chánh Sứ đi sứ
sang nhà Thanh, Hồ Xuân Hương gửi thơ mừng và ra đón tại Thạch Đình sông Vị
Hoàng nơi tiễn biệt ngày xưa, nhưng chàng đường đường là vị quan Chánh Sứ, muôn
cặp mắt trông vào, nàng chỉ dám nhìn từ xa, Hồ Xuân Hương viết hai bài thơ Mừng
gặp bạn trên sông Hoàng Giang, và Hoài Cựu chép trong Lưu Hương Ký.
Thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương chép
theo văn bản Antony Landes, Giám Đốc Trường Thông Ngôn, trước khi có
Trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1892 ông thuê Lê Quý và Nguyễn Văn Đại chép thơ Hồ
Xuân Hương. Hai ông này có đến làng Nghi Tàm gặp hai người con trai Tử Minh là
người « không ruột nhưng mà thương quá ruột » nên chép
được ba bài thơ Khóc Tử Minh của Hồ Xuân Hương. và toàn bộ các bài thơ truyền
khẩu của Hồ Xuân Hương, các người con Tử Minh lúc này khoảng 70
tuổi. So văn bản này với các bài thơ Truyền Khẩu về sau tôi chú ý có nhiều chữ
thay đổi ví dụ :
Trong bài Khóc ông Phủ Vĩnh Tường ( chức
cũ của Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển) chồng Hồ Xuân Hương bị tử hình bị
phe Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung vu cáo nhận hối lộ 700 quan tiền vì ép
dân trở lại cày ruộng thay vì làm nghề biển. Cùng thời gian sự kiện này
là Trung Quân chỉ huy toàn quân đội nhà Nguyễn, Nguyễn Văn Thành
phải tự tử, con là Nguyễn Văn Thuyên bị án chém. Binh Bộ Thượng Thư Đặng Trần
Thường bị xử thắt cổ, Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán tự tử. Hai
câu : ‘ Cán cân tạo hóa rơi đâu mất. Miệng túi càn khôn thắt lại
rồi.’Cán cân là hình ảnh nữ thần Công lý cầm cán cân trước các toà án thời
Pháp thuộc, thời Hồ Xuân Hương dùng chữ : đồng cân, ‘ mượn
tay thi tướng nhắc đồng cân. HXH. ‘ ‘âm công nhắc một đồng cân
cũng vừa ;’ ND.
Hai câu nguyên tác trong bản Landes : ‘Hạt sương dưới chiếu chau
mày khóc, Giọt máu trên tay mỉm miệng cười’. Khi chồng bị tử hình, Hồ Xuân Hương
ôm thây chồng khóc cười điên dại.
Điều oan nghiệt người thi hành bản án tử hình là quan Tào Binh Bắc Thành Trần
Quang Tỉnh, trước là Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ, từng là người đã yêu và làm thơ
xướng họa với Hồ Xuân Hương. Khi chồng bị bắt Hồ Xuân Hương có đến cầu cứu ông,
ông lánh mặt và sai lính đuổi nàng đi. Hồ Xuân Hương cay đắng viết trong bài
Bán Chầm thư hoài, (Nỗi niềm gối lẻ)
‘Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng, Tình ma không sức đuổi sầu binh’. Đem chữ sắc tướng nhà Phật, sắc tức thị không, không tức thị sắc, đối với
chữ sầu binh tài nghệ đối đáp Hồ Xuân Hương thật là tuyệt vời. »
Ngoài trời những chiếc lá vàng rơi trong nắng thu rất đẹp. Trong phòng hội nững
mái đầu bạc đang đắm hồn vào thảo luận. Không khí buổi hội thảo thật
hào hứng và sôi nổi vì nhiều ý kiến khc nhau. Cuộc tranh luận lan qua vấn đề
tâm linh, triết học rồi quay trở lại phần nghệ thuật.
Trong dòng lịch sử tân nhạc Việt Nam đã gần thế kỷ khởi từ những nhạc sĩ đầu
tiên như Nguyễn Văn Tuyên (Kiếp Hoa, Bông Cúc Vàng), Nguyễn
Xuân Khoát(Bình Minh, phổ thơ Thế Lữ), Lê Yên (Bẽ
Bàng,Nghệ Sĩ Hành Khúc, Ngựa Phi Đường Xa), Thẩm Oánh (Khúc
Yêu Đương, Đôi Oanh Vàng, Xuân Về), Nguyễn Thiện Tơ (Giáo
Đường In Bóng, Trên ường Về, Nhắn Gió Chiều), Dương Thiệu
Tước (Vầng Trăng Sáng, Áng Mây Chiều, Ngọc Lan, Tiếng Xưa, Đêm Tàn
Bến Ngự …), Lê Thương (Bản Đàn Xuân, Hòn Vọng Phu
1,2,3, Tiếng Thu, phổ thơ Lưu
Trọng Lư), Văn Chung (Bóng Ai Qua Thềm), Doãn Mẫn (Biệt Ly, Gío Xa
Khơi, Hương Cố Nhân),Đan Trường (Trách Người Đi),Văn
Cao (Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu, Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ), Hoàng
Qúy (Cô Láng Giềng, Chiều Quê), Nguyễn Đình Phúc (Lời
Người Lãng Tử, Cô Lái Đò, phổ thơ Nguyễn Bính), Tử Phác (Tiếng
Hát Quay Tơ),Lương Ngọc Châu &Tử Phác (Tiếng Hát Lênh
Đênh), Phan Huỳnh Điểu (Tràu Cau), Đặng Thế
Phong(Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu), Nguyễn
Văn Thương (Đêm Đông, Bướm Hoa), Hoàng Giác (Lỡ
Cung Đàn, Khúc Hát Thương Binh), Trần Hoàn (Sơn Nữ Ca), Tô
Hải (Nụ Cười Sơn Cước), Việt Lang (Tình
quê hương), Nguyễn Mỹ Ca (Dạ Khúc), Phạm
Duy (Cô Hái Mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, Cây Đàn Bỏ Quên, Chinh Phụ
Ca),Tô Vũ (Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa, Tạ Từ), Nguyễn
Văn Tý (Dư Âm), Nguyễn Văn Khánh (Nỗi
Lòng), Hoàng Trọng (Đêm Trăng, Một Thuở Yêu Đàn, Chiều
Tha Hương, Dừng Bước Giang Hồ), Nguyễn Hiền (Người Em
Nhỏ, phổ thơ Thiệu Giang, Anh Cho Em Mùa Xuân, phổ thơ Kim Tuấn, Ngàn năm mây
bay), Thông Đạt (Ai Về Sông Tương), Tu
My (Tan Tác), Anh Việt ( Bến Cũ), Lê
Mông Nguyên (Trăng Mờ Bên Suối, Quê Tôi, Bài Thơ Huế), Lê
Trạch Lựu (Em Tôi), Đoàn Chuẩn &Từ Linh (Ánh
Trăng Mùa Thu, Lá Thư, Tà Áo Tím, Thu Quyến Rũ, Chuyển Bến, Lá Đổ Muôn Chiều),...vv…Dòng
nhạc tiền chiến với những giai điệu mang tính lãng mạn trữ tình ảnh hưởng của
dòng nhạc bán cổ điển Tây Phương, nhất là nhạc Pháp do các danh ca, trong đó có
danh ca: Josephine Becker, Tino Rossi với những giai điệu trữ
tình Foxtrott, Valse,Tango:C’est À Capri (1934), Il Pleut Sur La Route
(1935), Marinella (1936) thể điệu rộn rã vui tươi, J’ attendrai(1937), Ave
Maria (1938) giai điệu dìu dặt khoan thai, Ecis Moi (1945), J’ai deux Amours,
Mon Pays et Paris …Thời đó có một số ít nhạc sĩ đã từng học nhạc Tây
Phương nên đã đem những dòng nhạc ấy vào hòa với dòng Dân Nhạc của Việt Nam
thành cổ kim hòa điệu. Tính chất nhạc Việt Nam dựa trên nền âm giai ngũ cung
chỉ có 5 nốt, lấy chất liệu từ các thể điệu dân ca như Ca Dao, Hát Nói,
Hát Quan Họ… trong khi nhạc Tây Phương âm giai 7 nốt lại giàu giai điệu, do đó
càng về sau, hướng sáng tác ca khúc càng chịu nhiều ảnh hưởng dòng nhạc
Tây Phương.
Tiếp theo Nhạc Sĩ Minh Nhật đàn và hát một số ca khúc tiền chiến của nhạc sĩ
Phạm Đại. Tuy lớn tuổi nhưng chất giọng của ông vẫn truyền cảm đã lôi cuốn
người nghe khiến không khí khán phòng trở nên lãng mạn của một chiều thu Paris.
BS Nguyễn Bá Linh hỏi:
« Xin Nhà nghiên cứu Phật giáo&Nhạc sĩ Minh Nhật cho
biết thời gian trước năm 1945 gia đình anh sinh hoạt văn nghệ như tế
nào ? »
Minh Nhật :
«Trong khoảng 1930 đến 1944 tại Hà Nội là thời gian phát triển âm nhạc
nghệ thuật, các bộ môn đó đều ảnh hưởng văn hóa và nếp sống Phương Tây từ những
mốt quần áo cho đến những kiểu tóc đều rập khuôn những tài tử điện ảnh ca nhạc
sĩ Âu Mỹ điển hình như Tino Rossi, Ediff Piaf, Rina Ketty, Rosita Serrano,
Charles Trenet, Victor Marthur,... đồng thời những bài ca Pháp được phổ biến
khắp nơi. Thời đó hai anh trai đầu và chị lớn của Minh Nhật là Phạm Thọ, Phạm
Đại và chị Kim Nga tham gia vào hoạt động âm nhạc rất sớm nên gia đình vào
những buổi chiều cuối tuần thường có các nhạc sĩ, ca sĩ, văn sĩ, đến tham gia
rất đông và rất vui như: Văn Cao, Thẩm Oánh, Phạm Duy, William Chấn, Nguyễn Văn
Khánh, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, vv... »
BS Nguyễn BáLinh hỏi
tiếp :
« Anh có thể cho biết sinh hoạt và những sáng tác của nhạc sĩ Phạm
Đại »:
Nhạc sĩ Minh Nhật :
« Năm 1946 Hà Nội tác chiến tất cả dân
chúng phải rời bỏ Thủ Đô di tản ra các tỉnh miền Trung Du Bắc Việt, hai anh lớn
và chị Kim Nga theo kháng chiến chống Pháp, từ đó vào Liên Khu 3 thành lập ban
văn nghệ Trung Đoàn Thủ Đô, do đó có những sáng tác kháng chiến ra đời như bài
" Năm Xưa, Quê Hương người chiến sĩ, Một năm qua, Chàng về ngày
chiến thắng,..."cộng với những tác phẩm của các nhạc sĩ khác như:
"Thu chiến trường, Nợ xương máu, Nhớ thương binh, Mùa đông chiến sĩ,
Tiếng hát sông Lô, Uất hận, Lời người ra đi,..." nói lên hình ảnh
tàn phá của quê hương trong chiến tranh, gợi lên lòng ái quốc trước sự tàn ác
của thực dân, kêu gọi thanh niên tham gia kháng chiến, ca ngợi chiến thắng cũng
như sự gian khổ của kháng chiến...Cuối năm 1949 nhạc sĩ Phạm Đại vào một đêm
mưa gió đã đem ban văn nghệ bỏ về Thành. Sau đó anh hoạt động cho đài phát
thanh Hà Nội và mở lớp dạy đàn guitare, hạ uy cầm, saxophone, ca nhạc và sáng
tác cùng với các anh Lâm Tuyền, Hùng Lân,... Trong thời gian này biết bao nhiêu
tuyệt phẩm đã được sáng tác qua các nhạc sĩ nổi tiếng như Dương Thiệu Tước,
Nguyễn Văn Khánh, Phạm Duy, Thẩm Oánh, Hoàng Trọng, Hoàng Giác, Tô Vũ, Nguyễn
Thiện Tơ, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Nhật Bằng, Ngọc Bích, Châu Kỳ, vv… Năm 1953 anh Phạm
Đại thành lập ban văn nghệ Vì Dân cho ngành cảnh sát công an đến tháng 7 năm
1954 thì di cư vào miền Nam (Sài Gòn) tiếp tục điều hành ban văn nghệ này. Một
số các nhạc sĩ do anh Phạm Đại đào tạo trong đó có Hoàng Dương, Vũ Huyến, Hoài
Thanh, Trần Thiện Thanh, Nguyễn Văn Đông, Thanh Sơn, vv... Còn chị Kim Nga khi
vào miền Nam hoạt động cho đài phát thanh Pháp Á, đài Quân Đội, cho các ban:
Hoàng Trọng, Văn Phụng, Trần Văn Trạch, Nghiêm Phú Phi, Lê Thương,... và phòng
trà Văn Cảnh đến cuối năm 1956 thì chị nghỉ hát vì lập gia định. »
Ca sĩ Opéra Đỗ Quyên:
« Những nữ ca sĩ đi hát cùng Chị Kim Nga thuở đó là ai ? »
Minh Nhật :
«Chị Kim Nga thì cùng các ca sĩ Minh Đỗ, Tâm Vấn, Thanh Hằng, Thanh
Hiếu,... đều tham dự trình bày cho đài phát thanh Hà Nội và các ban nhạc tại
các rạp hát trong những chương trình đại hội ca nhac. Khi vào miền Nam chị Kim
Nga hát cho đài phát thanh Pháp Á, đài Quân Đội, cho các ban: Hoàng Trọng, Văn
Phụng, Trần Văn Trạch, Nghiêm Phú Phi, Lê Thương,... và phòng trà Văn Cảnh đến
cuối năm 1956 thì chị nghỉ hát vì lập gia định. »
Đỗ Bình :
«Cách nay gần 30 năm ở Paris tôi có dịp đệm đàn cho chị Kim Nga hát bài
Hướng Về Hà Nội của nhạc sĩ Hoàng Dương, chị ấy rất xúc động khi hát nhạc phẩm
này.»
Minh Nhật :
« Riêng Đỗ Bình là chị Kim Nga qúy nên bằng lòng hát vì thuần túy về
văn học nghệ thuật, không thương mại, chứ anh Phạm Duy qua đã nhờ chị ấy hát
nhưng chị từ chối!»
BS Nguyễn Bá Linh :
«Anh Minh Nhật có thể cho biết sự quan hệ giữa chị Kim Nga và nhạc sĩ Hoàng
Dương ?»
Minh Nhật:
« Riêng anh Hoàng Duong và chị Kim Nga đều là bạn học từ thở thiếu thời -sau đó từ năm 1947 cùng tham gia vào hoạt động kháng chiến cho Trung Đoàn Văn Nghệ Thủ Đô đo anh Phạm Đại phụ trách cho đến năm 1949 cùng bỏ về Thành ( Hà Nội ) và cùng nhau cộng tác cho Dài Phát Thanh cũng như những buổi trình diễn - do đó tình cảm của hai người càng gắn bó .Đến tháng 7 / 1954 thi đại uý Đặng Văn Quang ( sau này là Trung Tướng )và anh Phạm Thọ ( trung úy )bất chợt đã đem quân xa về đón gấp gia đình chúng tôi dời Hà Nói đến cảng Hải Phòng để đi chuyến bằng tàu Saint Michel của Hải Quân Pháp vào Sài Gòn . Trước sự ra đi bất ngờ đó anh Hoàng Dương chỉ kịp gửi chị Kim Nga cây đàn guitare ,mấy tấm hình và một số bản nhạc do ánh sáng tác ( đã được trình diễn nhưng chưa xuất bản ) và hẹn rằng trễ nhất là đến tháng 12 / 1954 anh sẽ có mặt tại Sài Gòn để đoàn tụ nhưng lời hẹn ước đó đã không xảy ra ( vì anh đã bị giữ lại ?
).Vào dịp Tết 1955 anh Lê Mộng Bảo ghé thăm anh Phạm Đại- thì chị Kim Nga có đưa anh xem xấp nhạc của anh Hoàng Duong - sau đó anh chấp nhận cho Nhà Xuất Bản Tinh Hoa in ấn và phổ biến trên đài Phát Thanh Pháp Á gồm 3 bài :Hướng Về Hà Nội , Tiếc Thu và Luyến Thương »
Đề tài thảo
luận thì rộng lớn, một ngày cho hội thảo không đủ. Tất cả những người tham dự
hẹn lần tới sẽ bàn tiếp. Buổi sinh hoạt chấm dứt lúc 18h 00.
Paris Chiều Thu.
Đỗ Bình
Chú thích
GS
Trần Văn Thu ua đời năm 2019
BS
Nguyễn Bá Hậu qua đời năm 2018
Nhà nghiên cứu Phật Học Minh Nhật qua đời 2019.
No comments:
Post a Comment