MƯA BÊN ĐỜI
Đỗ Bình
Tử Sĩ
Từ độ quê nghèo yên khói lửa,
Mẹ ngồi khắc
khoải đếm sương khô.
Núi sông phảng
phất mùi thây rữa,
Vất vưởng hồn
oan chẳng nấm mồ!
ĐB
Mưa Paris chiều nay làm tôi gợi
nhớ về những chiều mưa trên quê hương, những cơn mưa chợt nắng Sài Gòn, những
ngày mưa lê thê Phố Huế, mưa lạnh trên
Cao Nguyên và cơn mưa phùn Hà Nội của thuở xa xưa lúc còn bé. Đang thả hồn bay
bổng trong những kỷ niệm đẹp hồn tôi bỗng se lại vì chợt nhớ cơn mưa chiều năm
ấy. Những hình ảnh cũ hiệm ra như một khúc phim của một quãng đời tưởng đã nhạt
phai theo thời gian nhưng nó vẫn ẩn trong tiềm thức. Chiều năm ấy màu hoàng hôn
đầy mây xám, trời đổ những cơn mưa tầm tã làm giăng mờ con đường rừng dẫn đến
trại tù. Mưa trút nước trắng xóa lớp hàng kẽm gai rào quanh trại như muốn xóa
bỏ những móc nhọn đang vây hãm những người bị mất tự do. Trời nhá nhem tối tiếng mưa lẫn tiếng gío hú tạo thành
một âm thanh rờn rợn tê tái khiến cảnh sắc trại tù thêm thê lương!
Hồi còn ở trại tù Suối Máu và trại An Dưỡng tôi gặp lại rất nhiều bạn thời đi
học cũng như bạn cùng đơn vị, ngày ấy tôi đã gặp một người bạn thuộc lớp đàn
anh của tôi trong ngành CTCT, anh có bằng cao học Văn Khoa trước khi vào lính.
Đang đảm trách trưởng khối của một đặc khu chẳng hiểu bị đổi hay anh thích
phong trần nơi chiến trường nên xin thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến và được
đưa về ban tham mưu bộ chỉ huy chiến thuật nhưng chẳng đảm trách nhiệm vụ gì,
mặc dù cấp bậc của anh ngang với tiểu đoàn trưởng! Anh Nghiêm Đặng dáng người
cao dong dỏng nghệ sĩ nhưng trong màu áo trận đậm nét phong sương của núi rừng
trông anh có vẻ oai hơn. Anh ít nói cử chỉ từ tốn, thích trầm tư như triết gia phong cách ngược
hẳn với một người lính nhanh nhẹn xông xáo. Anh có tài thổi Harmonica thỉnh
thoảng giúp vui văn nghệ nên được tất cả mọi người trong đơn vị qúy mến. Sau
hiệp định Paris chiến tranh ngày càng khốc lệt nên đã có biết bao người ngã
xuống nơi chiến trường nhưng anh không tìm cách ở hậu cứ nấn ná nơi văn phòng
có rất nhiều việc để làm, mà thường theo chúng tôi đi hành quân. Anh và tôi có
chung một nhiệm vụ ra chiến trường với vũ khí mang theo là cây bút và mớ kiến
thức về chính trị thì chắc không phải muốn làm người hùng mà chỉ muốn làm giống
các bạn trong đơn vị tác chiến. Cuộc hành quân kéo dài liên miên cũng may trong
nhiều trận đánh khốc liệt đạn đã tránh nên anh còn lành lặn sau cuộc chiến. Có
lần đơn vị dừng quân bên ngoài một thành phố nhỏ nghỉ dưỡng được ít ngày, thời
gian đó các bạn tôi quây quần bên nhau uống rượu đàn hát. Nghiêm Đặng cũng có mặt, anh thích uống rượu
vui văn nghệ thì làm sao mà bỏ lỡ cơ hội này. Anh uống rất nhiều nên đã ngà ngà
say và nằm võng ngủ gần đó. Riêng tôi, vì không biết uống rượu nên chỉ ngồi
chơi với anh em, hòa nhập vào không khí văn nghệ thưởng thức những tiếng đàn
hát tiếng cười nói thật vui nhộn. Đến qúa nửa khuya Alpha Ẩn một cây văn nghệ
tham gia, anh là một đại đội trưởng thâm niên có nhiều huy chương chiến trận.
Ẩn hát một bản nhạc tiền chiến nổi tiếng một thời, ca khúc có giai điệu thật
dìu dặt nhưng Alpha N Hữu Chung men rượu đã thấm, chếch choáng say nên đệm
không đạt khiến nhạc phẩm mất một phần tinh hoa! Bỗng dưng tiếng anh Nghiêm
Đặng gắt lên như xé âm thanh:
«Thôi xin ông
đừng đàn nữa tôi điếc ráy rồi!»
Chúng tôi cứ ngỡ anh Nghiêm
Đặng đã ngủ nhưng anh vẫn còn thức nằm nghe các anh em đàn hát. Nghe anh hét
Chung đang chơi đàn bỗng nhiên xìu mặt, nó cũng là dân cựu Văn Khoa đã tốt nghiệp cử nhân và là một đại đội trưởng
gan dạ. Nó nửa đùa nửa thật cười nói :
«Thôi cha! Anh
biết đàn đâu mà dám chê tui ?.. Xin niên trưởng để chúng em yên!».
Cả nhóm cuời ồ lên và tiếp
tục đàn hát. Không thấy anh Nghiêm Đặng trả lời tôi nghĩ anh say, nhưng lại
thấy anh ngồi dậy im lặng trên võng nghe hết bản nhạc rồi đứng lên tiến đến tôi
miệng nở nụ cười và chậm rãi nói:
«Cậu lấy cho tớ
cây mượn đàn .»
Tôi hơi ngạc nhiên tưởng anh
đùa vì quen biết anh đã lâu ở Sài Gòn không hề thấy anh chơi đàn. Tôi hơi ngần
ngừ nhưng vì nể anh tôi cũng mượn cây đàn của Chung đang chơi. Chung vì nể tôi
nên đã trao đàn mà lòng không vui! Cả nhóm trố mắt nhìn anh ôm đàn có lẽ họ
nghĩ là anh Nghiêm Đặng đang muốn diễu ? Tôi biết anh hát nhạc tiền chiến rất
hay và nghĩ anh ôm đàn làm dáng để hát góp vui. Nhìn cách ôm đàn và so lại dây
hơi lâu mà không cần nhấn nhiều vào phím, sau đó lại xuống dây số 6 thành Rề,
tôi giật mình vì chỉ những nhạc sĩ có lỗ tai nhạy bén âm độ và đạt mức chuẩn
âm mới lên dây đàn kiểu này. Tôi ra dấu
bảo các bạn im lặng, Nghiêm Đặng rít mạnh mẩu điếu Basto xanh dính trên môi một
hơi và trịnh trọng vào nhạc. Những ngón tay trái của anh như đoàn vũ ballet
lướt trên cung bậc diễn tả bản Capricho Arabe của danh sư Francisco Tarrega một
cách tài tình, đây là một bản nhạc khó, kỹ thuật cao của guitare trong dòng
nhạc cổ điển Tây Phương. Nghiêm Đặng
chơi tiếp một số bản khác. Hay quá , một sự việc không thể ngờ được! Rất tiếc
các ngón tay của anh lâu ngày không chơi đàn nên vẫn chưa mềm để có thể diễn tả
đến mức tuyệt vời những hình nốt trong cấu trúc bác học của dòng nhạc cổ điển
Tây Phương. Đáng lẽ anh cần phải để các ngón tay quen dần dạo qua một số bài
nhạc đơn giản trước khi chơi bản Capricho Arabe của F. Tarraga! Có lẽ do lâu
ngày không cầm đàn nay cầm lại khiến anh hứng quá và chơi liên tục chứ anh
không có ý định khoe hay biểu diễn. Các bạn không ai bảo ai giữ im lặng tạo một
không gian thật tĩnh để lắng nghe tiếng đàn và đêm càng khuya chỉ còn tiếng đàn
dìu tâm hồn người nghe vào một thế giới riêng thật huyền ảo của âm nhạc. Tiếng
đàn đang réo rắc bỗng ngưng lại vì anh Nghiệm Đặng đặt đàn xuống lấy trong túi
ra gói thuốc Basto xanh rút một điếu thuốc se se nhẹ hai ngón tay chậm rãi gõ
điếu thuốc vào lưng bàn tay trái, sau đó gắn lên môi rồi móc trong túi lấy chiếc
bật lửa Zippo mồi thuốc. Cử chỉ của anh chậm chạp làm chúng tôi sốt ruột! Anh
rít mạnh một hơi rồi tiếp tục ôm đàn dạo tiếp đoạn nhạc cổ điển, dòng nhạc liên
tục chuyển sang nhạc Việt với những nhạc phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật
cao của một số nhạc sĩ tiền chiến và đương thời đã được các nhạc sĩ tài danh về
guitare soạn hòa âm guitare. Cứ như thế chúng tôi thay nhau mồi thuốc khi điếu
thuốc của anh sắp tàn để dòng nhạc được liên tục cho đến 3 giờ sáng mới chấm
dứt. Về sau tôi hỏi anh tại sao chơi đàn giỏi thế mà dấu, anh cười buồn trả lời
:
« Hồi còn học ở
Văn Khoa, cũng tại mê đàn tớ mới mất mối tình đầu, và sống độc thân đến nay gần
40 mà chưa vợ !»
Tôi tôn trọng chuyện riêng
của anh nên không hỏi gì thêm. Sau biến cố tháng tư năm 75 tôi bị đuổi ra khỏi
Tổng Y Viện Cộng Hòa và đi tù. Gặp lại anh Nghiêm Đặng trong tù chúng tôi vừa
mừng vừa tủi trông anh gầy hốc hác vì thiếu ăn mà còn phải lao động nhiều,
nhưng vẫn giữ được phong cách nghệ sĩ. Anh nắm tay tôi trìu mến ái ngại cho
tình trạng sức khỏe của tôi đang chống cặp nạng! Tôi cười bảo anh yên tâm tôi
chịu đựng được !Anh khoe với tôi đang cho một con chim sẻ ăn cơm. Tôi cười
hỏi :
«Ở tù cơm không
có mà ăn, anh nuôi chim lấy đâu cho nó ăn ?!»
Anh cười :
« Nhín một chút sẽ có hạt cơm cho nó ăn ngay, hơn nữa nó
ăn được cả bo bo !»
Tôi bảo :
« Đã ở tù rồi anh lại nuôi nó chẳng khác nào anh nhốt tù
nó ?»
Anh Nghiêm Đặng :
«Cậu không hiểu,
ở đây làm bạn với chim vui hơn người ; mình thích nó hơn. Còn ở đất nước mình
chỗ đếch nào mà chẳng là nhà tù….mình có nhốt nó đâu ?»
Tôi và anh ở chung trại không
lâu thì bị biên chế trong đợt ra Bắc lần đầu, dù có tên trong danh sách chuyển
trại nhưng vì những vết thương cũ của tôi bị nhiễm trùng nên được nằm điều trị
bệnh xá trại, ở đó có nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, đại tá Đông cũng bị hoãn đưa ra
Bắc vì bệnh thấp khớp nặng. Họ xếp tôi vào loại là bệnh mãn tính nên không có
thuốc chữa do đó tôi phải rời bệnh xá trở về lán lao động. Về trại, các bạn bảo
tôi trông giống bộ xương khô biết đi và đã tưởng tôi đi «đứt» nhưng tôi vẫn
sống, vẫn lết từ trại nầy sang trại tù khác dù sức khỏe càng ngày càng tệ.
Ngày tháng cứ dần trôi và sự gian khổ cũng dần quen, số người được thả về rất
ít nhưng những người bị bệnh nặng thiếu thuốc trị thì ra nghĩa trang ngày càng
nhiều ! Sự chuyển trại cứ vẫn liên tục, dù bị chuyển đến đâu các bạn thấy
tình trạng sức khỏe của tôi đều thương nên đã lãnh thế những công tác lao động
nặng như vào rừng cưa cây, đập đá núi làm đường, anh em để tôi làm những việc
nhẹ ở lán. Có lần tôi và người bạn được giao đi lãnh cơm vì tôi không còn đi
bằng cặp nạng nữa, vết thương cũ đã tạm lành nhưng con mắt bị nhiễm trùng vì
không được thuốc chữa thì trở nặng, gần như mù ! Người được phân công khiêng
cơm với tôi là bạn cũ, anh ấy bị cụt một chân phải đi bằng chiếc chân gỗ. Ngày
trước anh ấy là một người hùng rất can đảm trong chiến trường vì đã giành được
chiến thắng, nhưng cũng ở nơi đó anh đã để lại một phần thịt xương thịt của
mình trên ngọn núi 1062 cùng với bao
chiến hữu khác nằm yên nghỉ muôn đời nơi chiến trường Thường Đức năm xưa! Mới
ngày nào khi rời ghế đại học tâm hồn chúng tôi đầy mơ mộng đầy hoài bão về một
tương lai rộng mở, thế nhưng chiến tranh càng khốc liệt thì sự tử vong càng
nhiều, đất nước rất cần thanh niên dấn thân đi bảo vệ quê hương giữ gìn sự tự
do an bình cho tổ quốc đang bị lâm nguy. Tiếng gọi quê hương đã thúc dục chúng
tôi lên đường nhập ngũ tiếp nối truyền thống hào hùng của cha ông, chúng tôi
thay vì ở văn phòng làm những công việc chuyên môn, đã tình nguyện ra những đơn
vị tác chiến hiên ngang xông pha trận mạc. Thế sự thay đổi khiến thế đời cũng
dổi thay nên hôm nay hai chúng tôi làm kiếp tù nhân đang khiêng thau cơm nặng
cho các bạn tù khác ở lán. Cái thau đựng cơm được gò bằng tôn chế biến lại,
trông nó có vẻ to tưởng đựng được nhiều, nhưng đến khi chia ra cho mỗi người
cũng chỉ được lưng chén! Chúng tôi đang khiêng hau cơm về gần đến lán thì đoàn tù lao động cũng vừa trở về chưa đến
lán nhưng đã thấy thau cơm, các bạn đã reo lên vì đói ! Người bạn khiêng
thau cơm đi phía trước của tôi chẳng biết vì xúc động bởi những tiếng reo của
các bạn hay tại vì đường trơn ướt mà chiếc chân gỗ không chịu quen nặng nên đã
bước lệch khiến hai người té sấp xuống đường ! Trong đoàn tù có những tiếng
rú lên mà thanh âm nghe não nuột :
-Trời ơi ! Cơm
đổ rồi!
Tôi nghe tiếng thét mà rụng
rời cùng với những tiếng chân vội vã chạy đến như đang dẫm vào hồn tôi! Sự
áy náy trách nhiệm tạo cảm giác hụt hẫng, trống vắng nhưng trong đầu vẫn vang
lên âm thanh lảnh lót : «Đổ cơm
rồi» ! Tôi bỗng cản thấy đau nhói vì chẳng một tiếng thở dài xót
thương cho hai kẻ thương binh bị té xấp ! Có lẽ trong số bạn tù chẳng ai
còn tâm trí nghĩ đến tình chiến hữu thuở nào ! Phải chăng khi con người
trong cơn đói lả thì miếng ăn đã ám ảnh che lấp tình đồng loại ? Cái đói đã
khiến người tù không đủ hơi sức kêu thành tiếng khác, ngoài sự ám ảnh của cơn
đói vọng lên âm thanh từ vô thức « đổ cơm rồi» ! Những khoảng khắc
giao động của cảm xúc lắng xuống, một số bạn tù ùa nhau chạy lại kẻ thì đỡ tôi,
người thì vực Qúy Nhảy Dù. Một số khác xúm nhau nhặt từng hột cơm văng xuống
dưới rãnh hiên lán rồi đem rửa từng hạt cơm như đãi cát tìm vàng. Mặc dù không
trông thấy rõ nhưng tôi vẫn cảm nhận được cơn đói hằn trên khuôn mặt anh em
khiến mắt tôi tuôn trào như cơn mưa chiều đang giăng mờ!
Dù trong tình trạng vết thương cũ chưa lành hẳn, tôi không chịu làm việc nhẹ
nữa. Kể từ hôm đó tôi cùng anh em vào rừng cưa cây, tôi còn quyết định để một
nửa phần cơm chiều của mình dành cho bữa cháo sáng. Tôi nghĩ:
"Đây cũng
là cách chuộc lỗi đã tắc trách làm đổ thau cơm của anh em".
Bạn cùng tổ lúc đầu còn áy náy khi thấy tôi nhịn bớt phần cơm mình để có phần
cháo sáng, nhưng dần dần thành quen, không còn ai thắc mắc. Tình trạng thiếu ăn
ở trong tù ngày càng trầm trọng! Hạt cơm trong tù qúy và hiếm lắm! Ai đã từng
trải qua cơn đói lả mới thấy giá trị của miếng ăn! Cơn đói đã trở nên gối đầu,
nghĩa là ăn bữa nay mà cái đói nó dồn từ vài bữa trước. Nhiều buổi chiều lao
động về đói quá tôi đã ăn hết phần cơm để dành dể nấu cháo. Sáng ra vài bằng
hữu không thấy cháo đâm nổi quạu! Tôi ngạc nhiên và tự hỏi tại sao lại nổi quạu
? Và chợt nghĩ :
"Hình như các bạn ấy ngỡ bổn phận của tôi là phải có cháo sáng cho họ
ăn…Thế mới biết một việc được lập đi lập lại nhiều lần dù ở trong tù hay bất cứ
ở nơi đâu cũng thành thói quen !”
Tôi bùi ngùi thở dài, trong lòng vừa có chút xót xa vừa cảm thấy ưng ức! Rồi
lại nghĩ:
" Mình thì
bệnh tật, lại thường hay phát biểu bị quy là chống đối và bị kỷ luật, có lẽ sẽ
bỏ xác trong tù ! Mình có ăn thêm một chút thì cũng chỉ kéo dài sự sống, thêm
chuỗi ngày đau khổ, nhưng nhín chút cháo sáng lại là chút niềm vui nhỏ mỗi
ngày…cũng ấm lòng cho ít bạn bè".
Tôi lại tiếp tục nhịn, nhịn riết rồi cũng
quen. Niềm vui nhỏ đó thoáng nhanh, một thời gian không lâu sau đó chúng tôi lại
bị biên chế nhóm bạn ấy và tôi bị phân tán đi khắp nơi. Sau này ở hải ngoại gặp
lại một số bạn tù, các bạn kể trong số những người bạn cũ, có ngưòi đã chết vì
bệnh, người thì kiệt sức ngã gục ngủ yên nơi góc rừng khe núi. Nghe kể lòng tôi
xót xa! Các bạn tôi và tôi giờ đây chẳng còn ai thèm những hạt cơm rơi nữa,
nhưng tôi vẫn nhớ hạt cơm rơi trong chiều mưa.Tôi có gặp lại Nguyễn H.
Chung,nhưng anh Nghiêm.Đặng thì không!
Paris đã vào mùa xuân nhưng tiết trời còn lạnh, chiều nay ngồi trong căn phòng
ấm nhìn những hạt mưa rơi lòng tôi chợt cảm thấy buồn! Cơn mưa chiều đã gợi nhớ
những hình ảnh những người bạn năm xưa ; mà nay có người còn kẻ mất! Những kỷ
niệm vui buồn của một thời khói lửa và những năm tháng ngậm ngùi sau cuộc chiến
về thân phận con người!
« Đời buồn như chiếc lá,
lặng rơi bên hiên nhà.
Mưa vô tình ngập lối
Cuốn trôi mảnh hồn ta !»
Đỗ
Bình
https://www.youtube.com/watch?v=avglHFzbpJk
PHO XUA Do Binh by Huong Giang -
YouTube NhẠc phẩn PHỐ XƯA – thơ Đỗ Bình-CS. Hương Giang
|
https://www.youtube.com/watch?v=FOkyhf40Q8U&list=RDMMFOkyhf40Q8U&start_radio=1
Chiều trên sông Seine - YouTube About Press Copyright Contact us Creators Advertise Developers
Terms Privacy Policy & Safety How YouTube works Test new features Press
Copyright Contact us Creators ... |
No comments:
Post a Comment