Bài vui/ Từ Người Việt Tị Nạn...
Cơ hội "ngàn năm một thuở" tại các trại tị nạn mà dân Việt gần như
không thể có được khi sống tại Việt Nam là: sự tự do thay đổi lý lịch và học
Anh ngữ miễn phí. Thực ra, đây cũng là hai sinh hoạt bận rộn và nhộn nhip nhất
của dân Việt tạm trú tại các trại tị nạn
Sự thay đổi lý lịch gồm cả việc đổi tên,
đổi tuổi và đổi sự không tưởng: địa vị xã hội [social status].
Chị Nguyễn Thị Gáo với một cái tên cúng
cơm rất mộc mạc, hiền lành của "hoa đồng cỏ nội." Từ sau khi chị bị
té giếng, hồi còn là thiếu nữ ở Cần Thơ, đầu óc của chị cho đến nay chưa hoàn
toàn tỉnh táo, đó có thể là lý do mà chị vẫn còn "độc thân tại chỗ" với
cái tuổi ba mươi mí rồi. Nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, chị đổi tên cho có
vẻ tỉnh thành, thơ mộng, văn nghệ hơn; và đổi tuổi cho trẻ trung hơn là:
"Nguyễn Thị Phương Loan" hai mươi mốt tuổi. Mẹ của chị Gáo, cụ bà
Nguyễn Thị Thau, thường than phiền với hàng xóm tị nạn là:
- Chèng đét ơi! Tôi đặt cho nó tên
là Gáo, tức là gáo dừa để múc nước cho sạch sẽ và bền bỉ. Không biết ăn nhằm
cái giống gì" mắc chứng gì" mà nó đổi tên thành "Lon!"
[Loan] bằng sắt cho nó mau rỉ sét, mau lủng.
Với sự thay đổi đầy tiện nghi này, hy vọng
rằng chị đã gặp được tình quân, có thể là cựu "Trung Tá Y Sĩ" hay cựu
"Đại Tá" một cách mau chóng.
****
Cụ Lý Toét nằm chung lều [mỗi lều trong
trại có thể chứa khoảng 4 đến 6 gia đình tị nạn] với tôi đã 65 tuổi, tức là tới
tuổi hợp lệ về hưu ăn "tiền già" nếu sống ở đất Mỹ. Vì chúng tôi thuộc
đợt thuyền nhân đầu tiên, ú a ú ớ, không có người hướng dẫn, cứ sợ ra khỏi trại
Mỹ nó thấy tuổi già không mướn làm việc thì chết đói mất. Cụ tự khai rút lại tuổi,
chỉ còn có 55! Tôi đoán là cụ sẽ đấm ngực "lỗi tại tôi; lỗi tại tôi mọi
đàng! " về cái lỗi lầm quá tai hại này! Bởi vì cụ sẽ còn phải
"cày" thêm khoảng một chục năm nữa mới về hưu được! Có lẽ cụ đã qui
tiên trước khi nhận cái "check" phụ cấp hưu trí đầu tiên của sở xã hội
Mỹ. Tội nghiệp chung cho dân tị nạn, nhân bần chí đoản. Chỉ vì sự lo âu về sinh
kế trên đất lạ mà đầu óc trở thành đặc kịt như khoai tây, không thể phân tích lợi
với hại; hai mắt giống như mắt ngựa kéo xe bị che cả hai bên, không nhìn xa được.
Cho nên tự ý khai báo lại, sửa đổi tầm bậy tầm bạ trong cái hoàn cảnh vô luật lệ,
vô sổ sách này.
2. Gia đình Bác Toàn [không
phải tên thật,] cũng ở chung lều với tôi. Trong lần đầu tiên tiếp chuyện với
Bác gái, Bác đã "khiêm nhường" thông báo cho tôi cái địa vị xã hội của
gia đình Bác như sau:
- Ông nhà tôi là "cựu Đại Tá"
của QLVNCH! Trước đây gia đình tôi làm chủ 3 tiệm thuốc tây ở Sài gòn.
Gia đình tôi còn có cả một bầy vú em, con ở phục vụ. Bây giờ ở đây [trại tị nạn]
cái gì cũng phải tự làm lấy. Thật khổ ghê!
Cô con gái lớn của Bác, người có cái
nhan sắc giống như nhan sắc của anh hề Tùng Lâm, cứ luôn miệng than vãn
là:
- Tiếc quá, lúc "chạy" không
đem theo được "con nhỏ làm tóc." Bây giờ đầu tóc như ổ quạ. Thật rõ
chán! Nhận xét của chị thật đúng! Tóc của chị cả lúc nào nhìn cũng
giống như đau ban mới khỏi!
Lúc đó tôi ngây thơ, rất "nể
nang" cái "danh giá" của gia đình Bác. Tôi vẫn tiếp tục giữ liên
lạc, thăm hỏi gia đình bác nhiều năm sau khi ra khỏi trại tị nạn. Gia đình Bác
được bảo trợ [sponsored] và định cư tại San Diego ngay từ ngày đầu của tháng 9
năm 1975. Bác trai sau này làm "Security Guard" và Bác gái chứa cờ bạc
xì phé ở nhà để kiếm thêm tí tiền "xâu" cho ngân quỹ gia đình.
Năm 1984 tôi lập gia đình. Tôi đã mời
hai bác tham dự đám cưới của tôi. Tại đám cưới này, tôi mới biết sự thật về cái
"danh giá" của gia đình Bác. Đồng thời cũng tại đám cưới của tôi, Bác
gái mới biết được là quả đất tròn; không có gì che dấu được lâu dưới ánh sáng mặt
trời. Bác trai, trước năm 1975, là Trung Úy của cục Tiếp Vận và làm dưới quyền
của Trung Tá Chín. Trung Tá Chín cũng được ông Bố vợ tôi mời dự đám cưới của
tôi vì Trung Tá hồi còn ở chức vụ Thiếu Tá, đã từng là Sĩ Quan cùng đơn vị với
Bố vợ của tôi. Hai thầy trò [Trung Tá Chín và "Đại Tá" Toàn] gặp nhau
trong hoàn cảnh không có hẹn trước tại đám cưới này.
Như tôi được giải thích rõ rằng hơn sau
đó, nhà Bác Toàn chẳng có làm chủ tiệm thuốc tây nào cả. Bác gái chỉ buôn lậu
thuốc Tây lặt vặt [có thể là buôn bán thuốc Tây giả!] Nhà Bác ở trong một ngõ hẻm
ở khu Trương Minh Giảng cũ. Đi bộ từ ngoài đường cái vào đến nhà Bác phải hát
bài "Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa" hết ba lần mới đặt chân tôi cửa
nhà Bác. Khi muốn trở ra đường cái từ nhà Bác, tốt nhất là phải nhờ con Bác dẫn
ra; nếu không bảo đảm sẽ đi lạc nếu đến thăm nhà Bác lần đầu. Bác gái đã thật
can đảm thăng một lúc 4 cấp cho Bác trai, từ "Trung Úy" lên tuốt luốt
"Đại Tá" không phải tại mặt trận, mà tại trại tị nạn chỉ vài ngày sau
"30 tháng 4 năm 1975."
3. Trong tại tị nạn, sự thay
đổi địa vị xã hội tương tự như vậy không phải là hiếm. Anh binh nhì tự thăng cấp
mình lên thành Thượng Sĩ. Anh "Trung Sĩ Y Tá" thành "Trung Tá Y
Sĩ." Anh "Thư Ký Hành Chánh" thành Phó Tổng Giám Đốc ..v.. v..
Người nào cũng làm quan lớn, chủ tiệm, chủ thương nghiệp, chủ chợ, chủ phố cho
Mỹ mướn, chủ vựa cá, chủ đồn điền cà phê, chủ đồn điền trà, hoặc chủ ruộng đất
cò bay thẳng cánh.
Chẳng có ai làm lính trơn, chài lưới,
cày ruộng, du đãng đường hẻm, cướp giựt hoặc ăn mày vô sản bần cố nông cả. Thật
đúng là loạn! Không biết đâu là vàng, đâu là thau để xét đoán, lựa chọn. Nhiều
cô gái ngây thơ nhẹ dạ, sau khi say mê nghe các anh "tài tử" thuyết
trình không nghỉ về cái lý lịch "trời ơi đất hỡi," vô căn cứ, đã vội
vã làm đám cưới với các anh có cái lý lịch "vàng son" này ngay tại
trong trại tị nạn. Khỏi cần phải bàn thêm, các cô này bây giờ có lẽ không sớm
thì muộn, đã thấy hoặc phát giác ra cái thực tế, cái lý lịch "lủng" của
các thợ "phỉnh" một cách phũ phàng! Một số lớn các cô này đã trở
thành nữ thi sĩ. Hèn gì! thi sĩ Hà Huyền Chi đã có lần nhận xét như sau:
- Sau ngày "30 tháng 4 năm
1975," văn đàn Việt Nam ở hải ngoại bị lạm phát thi sĩ.
4. Việc học Anh Ngữ miễn phí
trong trại tị nạn mới thật là ngoạn mục. Trong đời đi học của tôi, tôi chưa thấy
bao giờ học sinh lại chăm chỉ như vậy. Tôi nhớ hồi còn ở Saigon, Mẹ tôi phải chạy
ngược, chạy xuôi vay nợ để cho tôi có tiền đóng tiền trường học thêm Anh Ngữ tại
trường Nguyễn Ngọc Linh vào buổi tối. Thế mà tôi vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội để
"cúp cua" trốn học. Bây giờ thì tình thế hoàn toàn khác hẳn. Lính
TQLC Mỹ đã dựng một số lều thật lớn để dùng làm lớp dậy Anh Ngữ. Thầy giáo, cô
giáo hầu hết là những người Mỹ tình nguyện của các hội Thiện Nguyện Tình Nguyện
Nhân Đạo [gọi tắt là cơ quan "Volag"] dậy học Anh Ngữ cho dân tị nạn.
Họ không lãnh lương bổng gì cả. Sau giờ ăn chiều, chỉ chậm chân một tí là không
tìm được chỗ ngồi trong các lớp học này. Phải đứng suốt cả mấy tiếng đồng hồ.
Những "sex symbol" của trại là
các anh thông dịch viên, những anh trợ giáo [teacher aids] cho các thầy các cô
người Mỹ của các lớp học Anh Ngữ này. Các anh trợ giáo nầy đại đa số là nhân
viên cũ của sở Mỹ ở Việt Nam. Các anh trợ giáo nói Anh ngữ nghe như gà tây kêu,
thế mà sao lúc đó tôi còn dốt đặc như cán mai, không thể phân biệt được thế nào
là hay thế nào là dở cả! Mọi người trong trại tị nạn ngưỡng mộ các anh trợ giáo
như thần tương. Các em gái xinh đẹp thơ mộng của trại bị các anh này
"cua" hết ráo! Dân tị nạn đực rựa độc thân thuộc loại "ngọng"
như tôi chỉ có nước ở giá.
5. Cụ Lý Toét luôn luôn chọn
chỗ ngồi cạnh tôi trong lớp học anh ngữ. Lý do là chúng tôi ở chung lều, đã
quen thuộc với nhau rồi. Kẹt kẹt, cụ phải cần phải hỏi tôi về Anh ngữ thì cũng
không ngượng. Cũng nên biết, cụ hỏi tôi không phải vì tôi giỏi giang gì! Nhưng
vì tôi cũng đã biết "lõm bõm" Anh ngữ, còn cụ chưa từng đi học Anh ngữ
hay tiếp xúc với ngoại quốc bao giờ cả.
Thắc mắc đầu tiên của cụ
là: - Này anh ạ, tiếng Mỹ sao quái đản quá vậy" "ai"
[I] cũng là tôi, mà "mi" [me] cũng là tôi" Không biết đường nào
mà lần. Anh chỉ tôi cách phân biệt "ai" với "mi" sau giờ học
nhé.
Sau vài tuần lễ, cụ Lý Toét có vẻ tự tin
hơn. Lớp học Anh ngữ đã tiến đến cấp khó hơn; có nghĩa là học trò phải tập nói
làm một câu dài đầy đủ chủ từ, động từ và túc từ chứ không phải học từng chữ một
như mấy tuần đầu. Thầy giáo cho học sinh trong lớp tuần tự đọc và áp dụng câu
"this is a..."
- This is a door.
- This is a chair.
- This is a table.
Rồi đến lượt cụ Lý Toét. Thầy giáo chỉ
vào một cái ghế bố [TQLC Mỹ phát cho mỗi dân tị nạn một ghế bố gấp lại được để
làm vừa giường ngủ vừa làm ghế ngồi] xếp đứng ở trong góc lớp và ra dấu cho cụ
lập câu và đọc.
Mọi người đều được dịp cười gần bể bụng
vị cụ Lý Toét dịch là:
- This is a "Chair Father! "
Ối giời đất ơi! Cụ đã ghép chữ
đúng theo nghĩa đen.
"Ghế" là "chair" và
"Bố" là "father."
Tôi phải giải thích cho cụ sau này tốt
hơn là nên tránh dịch nghĩa đen như vậy. Mình nên học thuộc lòng cái danh từ
Anh Ngữ của từng đồ vật hay người. Ghế bố phải được dịch là "Cot" chứ
không phải là "chair father! "
6. Anh "Thượng Sĩ"
Tiến, người cũng ở cùng lều với tôi, sáng nào anh cũng ngồi trên ghế bố cầm đọc
đọc tờ báo Anh ngữ mà anh vẫn nhặt từ thùng rác do lính TQLC Mỹ quẳng để
"hù" bà con láng giềng trong lều. Các cụ cao niên cứ tấm tắc khen anh
Tiến là "giỏi quá, đã đọc được báo Mỹ rồi! " Riêng tôi, qua nhiều lần
ngồi nói chuyện với anh về vấn đề học Anh ngữ, tôi vẫn có câu hỏi thật lớn là
không biết anh Tiến có đủ trình độ Anh ngữ để đọc báo Mỹ không" Nhưng dù
sao tôi phải khen ngợi anh ở chỗ anh có cố gắng. Một hôm, sau khi đọc mục rao vặt,
tìm việc, anh nói lớn, trống không để cho mọi người trong lều cùng nghe chứ
không nói trực tiếp riêng với người nào cả:
- Ở ngoài [trại tị nạn] Mỹ họ mướn người
"coi con nít trên xe buýt" mà cũng trả đến $2.10 một giờ [lương tối
thiếu lúc bấy giờ.]
Vì có tính hiếu kỳ nên tôi mới hỏi anh:
- Cái nghề đó tiếng Mỹ gọi là gì đó anh
Tiến"?
- Đó là nghề "Busboy." Anh trả
lời.
Tôi may mắn đã biết được nghĩa chữ nầy hồi
còn đi học Anh văn buổi tối ở Sài Gòn, nên tôi nói: - Không phải đâu
anh. "Busboy" là người dọn bàn trong nhà hàng đó!
Nhưng anh Tiến cứ nằng nặc cãi cho bằng
được "Busboy" phải là "coi con nít trên xe buýt." Cuối
cùng, tôi đành phải chào thua anh vì sự quả quyết của anh làm tôi cũng áy náy,
ngờ vực không biết mình nhớ đúng hay sai!
Trong lớp học, anh Tiến là người hăng
hái đưa tay hỏi thầy cô về mọi vấn đề của cuộc sống bên ngoài trại tị nạn. Anh
hỏi cả cách chửi thề bằng tiếng Mỹ như thế nào. [Nên biết anh Tiến hỏi thầy bằng
tiếng Việt và câu hỏi được trợ giáo dịch ra Anh Ngữ để cho thầy hoặc cô trả lời.]
Riêng câu hỏi về chữ chửi thề bằng Anh ngữ, cô giáo trả lời là anh không cần phải
học trong lớp. Khi ra khỏi trại, đời sống sẽ dậy cho anh biết một cách tự
nhiên.
Có một lần, cô giáo yêu cầu anh dịch một
câu ngắn làm thí dụ cho một đề tài về làm câu của buổi học. Anh Tiến dịch là:
- "Your eye is as beautiful as the stars. [Mắt em đẹp như những vì sao!]"
Cô giáo khen là câu nói của anh Tiến rất
"lãng mạn!" [romantic.] Nhưng rất tiếc là, theo lời cô giáo, người
yêu của anh Tiến chỉ có một mắt...! Câu này phải nên sửa lại với mắt là số
nhiều:
- "Your eyes are as beautiful as
the stars."
Sau này, tôi có dịp gặp lại anh Tiến ở
San Jose khoảng năm 1992. Anh làm chủ một cây xăng "Shell." Lúc đó có
lẽ anh đã biết phân biệt danh từ số ít và số nhiều mạnh giỏi rồi.
7. Khi làm giấy tờ định cư tại
"processing center" trong trại. Tôi gặp một ông Mỹ trắng chỉ dẫn dân
Việt tị nạn cách điền vào các mẫu đơn và hoàn tất hồ sơ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ.
Rất đặc biệt là ông ta nói tiếng Việt trôi chảy. Tiếng Việt với giọng Quảng Nam
mới ly kỳ. Tôi rất lấy làm thích thú vì trong khi mình còn ấp a ấp úng chưa nói
được chữ tiếng Mỹ nào mà đã có người Mỹ nói tiếng Việt quá giỏi! Tôi tìm cách
lân la lại làm quen với ông Mỹ này và được biết ông là Mục Sư Tin Lành đã từng
làm việc Tuyên Úy cho quân đội Mỹ tại Việt Nam.
Tôi hỏi Mục Sư: - Thưa Mục
Sư. Mục Sư có biết là đang nói tiếng Việt với giọng "Quảng Nam"
không"?
Mục Sư trả lời: - Tôi biết chứ!
Ông thầy tôi là người "Đè Nẽng" mà! Tôi còn phân biệt được giọng Bắc,
giọng Nam và giọng Huế nữa.
Tôi hỏi thêm: - Thế Mục Sư đã
có gặp những trường hợp khó khăn nào khi giao thiệp với người Việt bằng tiếng
Việt chưa"?
- Có nhiều lần rồi! Trong một lần đọc
bài giảng [sermon] cho giáo dân tin lành người Việt trong trại tị nan. Tôi lấy
làm lạ vì thấy họ cười khúc khích với nhau. Sau buổi lễ, hỏi ra thì tôi mới biết
là tôi dùng dấu chữ Việt trật lất làm cho ý nghĩa thay đổi hết. Thay vì tôi muốn
nói: "Chúa 'ban' phước lành cho anh chi em [God bless you all.]" Tôi
lại nói là: "Chúa 'bán' phước lành cho anh chị em [God sell the blessing
to you all!]" Trong một lần khác, tôi nói: "con chim nó 'ngồi' trên
cây [the bird is sitting in the tree.]" Đáng lẽ tôi phải nói: "con
chim nó 'đậu' trên cây mới đúng."
Tôi xin bái phục vị Mục Sư Mỹ này làm Sư
Phụ.
8. Năm 1976, tôi và tám chín
đứa "tứ cố vô thân" và "thất cơ lỡ vận" giống như hoàn cảnh
của tôi, mướn chung nhau một "apartment" 2 phòng ngủ ở San Diego -
California và chia nhau tiền thuê mỗi tháng cho đỡ tốn kém vì đứa nào cũng làm
lương tối thiểu cả. Mỗi lần, vì một lý do nào đó, "Manager" của khu
"apartment" đến thăm, thì đám "tứ cố vô thân" vội vàng chạy
trối chết trốn vào trong các tủ [closets] quần áo, bởi vì điều lệ thuê nhà
không cho phép người thuê ở quá đông như vậy. Họ biết sẽ đuổi cổ ra khỏi
"apartment." Thật tội nghiệp! Bạn cứ tưởng tượng quang cảnh chúng tôi
lúc đang ăn cơm vội vàng bỏ bát đũa chạy vào tủ quần áo để trốn; giống hệt như
lúc bạn bước vào bếp buổi tối, bật đèn lên rồi nhìn thấy một đàn gián
[cockroaches] chạy bán sống bán chết vào các góc kẹt trong nhà bếp vậy!
Trong đám "tứ cố vô thân" này
có anh "roommate" Sĩ Phú.
Anh Phú, chẳng những là một ca sĩ tài
danh mà còn là một Thiếu Tá phi công trực thăng của KQVN. Anh Phú nói tiếng Anh
rất giỏi vì anh Phú đã được đi học lái trực thăng tại Hoa kỳ. Anh Phú chạy qua
Mỹ với cùng tình trạng "khố rách áo ôm" như tôi. Anh "độc thân tại
chỗ" vì bỏ lại vợ và 5 con ở Việt Nam.
Lâu lâu, cuối tuần mấy anh em thường rủ
nhau đi nhà hàng Mỹ để nghe nhạc sống cho đỡ buồn. Một hôm, vì ngứa nghề, anh
Phú lên nói với anh chàng Mỹ trưởng ban nhạc là anh muốn được lên hát góp vui một
bản nhạc. Không biết anh nói thế nào mà anh trưởng ban nhạc, sau đó, nói qua
cái "micro" tuyên bố với tất cả thực khách là:
- Ladies and Gentlemen, this is my honor to introduce to you our special guest singer, Mr. "Seafood" who will sing for us a beautiful hit song, the "Unchained Melody."
Từ sau hôm đó, anh Phú có cái
"nickname" là "Mr. Seafood."
Đến khi tôi thấy đã khuya rồi, ngày mai
còn phải dậy sớm đi cày. Tôi nói với đám "tứ cố vô thân:"
- Thôi mình đi về đi! Mai còn phải dậy sớm
đi làm.
Anh Phú trả lời là: -Mày chờ
tao vào "restroom" để "giặt" [wash] bộ râu xong rồi mới về
nghe.
Sau này, khi có dịp gặp lại anh Phú lúc
anh còn sống, tôi vẫn thường nhắc lại với "Mr. Seafood" về cái kỷ niệm
này.
9. Hôm nay, cái "nạn"
của đất nước đã đánh dấu năm thứ 32. Nhiều người tị nạn trong chúng ta đã đổi
quốc tịch để thành "Mỹ gốc Á Châu!" Tên họ được viết đảo ngược [tên gọi
đặt trước tên họ.] Nhiều người còn tiến bộ hơn, đổi cả tên lẫn họ thành tên Mỹ.
Anh bạn Nguyễn Văn Tèo bây giờ trên giấy tờ là "Tony Newell!" Lúc đầu
đọc nghe thấy kỳ kỳ; nhưng riết rồi cũng quen. Tôi còn nhớ lúc anh Tèo mới vào
quốc tịch với cái tên mới Tony, bạn Mỹ gặp anh trên đường phố, gọi anh:
"Tony, Tony..." Vậy mà anh nghe thấy, vẫn cứ bước đi thẳng như không
có chuyện gì xẩy ra! Chính ngay anh cũng quên tên mới của anh là "Tony!
" Có một lần anh đi ra tiệm giặt ủi của Mỹ để lấy quần áo giặt ủi về. Bà
chủ tiệm người Mỹ nhìn cái biên nhận với cái tên mới "Tony Newell" của
anh, rồi bà ta nhìn anh nói là: - You do not look like
"Tony Newell" to me!
10. Hơn ba mươi năm trời trôi
đã qua mà cứ tưởng như mới ngày hôm qua. Đầu óc tôi cứ lơ đãng để ở một nơi nào
đó ở Phi Luật Tận. Tôi chợt bừng tỉnh với cái thực tế của hiện tại khi thằng
con trai bẩy tuổi của tôi gọi to: - Bố! bố! "Giặt" cái đầu
cho con. Xà bông đang chẩy vào mắt con "nóng" quá!
Tôi nghe mà không khỏi vừa cười thầm vừa
lo âu! Cười thầm vì tiếng Việt đã bị Mỹ hóa nghe khôi hài, ngớ ngẩn. Lo âu vì
không biết tương lai tiếng Việt trên đất Mỹ sẽ đi về đâu" Chính bản thân
tôi tiếng Mỹ đã không thấy giỏi hơn chút nào mà tiếng Việt đã quên bớt đi rất
nhiều. Lo âu cho thế hệ con, thế hệ cháu về sau này" Không biết tiếng Việt
có trở thành "endangered species" giống như voi và tê giác ở Phi Châu
đang bị giết để lấy ngà làm đồ trang sức và sừng làm thuốc bắc hay không"
Trở về thăm quê nhà, nói chuyện với bạn
bè cũ, láng giềng cũ thì sự lo âu đó càng to lớn hơn. Mình là người ngoại quốc
sống trên đất Mỹ đã đành. Bây giờ, mình cũng lại là người ngoại quốc đối với
ngay quê hương cha sanh mẹ đẻ của mình. Đó là cái giá mà mình phải trả cho sự tự
do. Đành phải chấp nhận "gặp thời thế, thế thời phải thế." Người Việt
ở quê nhà bây giờ đang nói tiếng Việt với một bộ chữ Việt khác hẳn với chữ Việt
như hồi tôi còn sống ở quê nhà. Nhiều khi tôi phải nhờ người nhà giải nghĩa mới
hiểu!
"Còn trời còn đất còn non nước. Có
lẽ ta đâu mãi thế này!"
(Nguyễn Công Trứ - Quân Tử Cố Cùng)
"Xin trời đất thương cho nước Việt
và dân Việt!" Tôi vẫn thường cầu nguyện.
No comments:
Post a Comment