BÀ MẸ QUÊ
(Tô Văn Cấp, K19)
Tại Đà Lạt khoảng cuối năm 1962 (đầu năm 1963)
tại tiệm Lợi Ký, khi bà mẹ quê từ Sài Gòn lên thăm con vừa được làm SVSQ Khóa
19.
Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa
phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì con gọi bố
mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai danh từ này cho bài viết về mẹ tôi, một
bà mẹ quê.
Thầy tôi qua đời ngày 15/1/1947, hưởng dương
41 tuổi. Ông cụ mất đi khoảng sau hai tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê
chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn” (?). Những ngày thầy tôi lâm trọng bệnh và
khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không còn nhớ gì nữa. Kỷ
niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ
con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ. Khi đến bên
bờ hồ trước cửa nhà thờ thì nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò. Còn
tôi, một thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi đành
buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc vì sợ con trâu sẽ chết đuối.
Với bu tôi, một bà mẹ quê, thì tôi nhớ nhiều,
nhưng tôi chưa một lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu.
Khi thầy tôi mất thì bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con. Tất cả cùng
sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai chái, một mảnh vườn với dăm ba
sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An, thành phố Hải Phòng, và chỉ cách
hai nơi này chừng hơn 3 cây số.
Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn
còn như đang thấy trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc
vườn, sau lũy tre, hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc,
sau khi đã chôn cất thầy tôi xong.
Bu tôi cả ngày phải chân lấm, tay bùn với ruộng
lúa vườn rau, mỗi buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn
(heo) xong thì mặt trời đã lặn. Giữa lúc tranh tối tranh sáng ấy, bà lẳng lặng
ra góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè mà thút
thít khóc, trong khi các con không hay biết.
Một buổi chiều tối, khi chim đã về tổ, tôi leo
lên cây cau góc vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con “chíp chíp” mà tôi
đã rình từ lâu, tôi thất kinh suýt rơi xuống đất khi bất chợt thấy một bóng đen
đứng khóc ở góc vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra tấm khăn tang trắng
vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của bu tôi. Tôi vội tụt xuống
định chạy vào nhà, nhưng rồi khựng lại, ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì nghe
tiếng bu tôi khóc: “Ối
ông ơi! Trời đã tối rồi, ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống nước với các
con, ông ơi!”
Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà
quê không biết sợ ma nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như
thế. Bà khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các
con nghe được, bà cam chịu đau khổ thương nhớ một mình, không đành chia nỗi
buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi không ai hay biết việc này, vì sau
một ngày quần quật với công việc ruộng lúa, vồng khoai thì tất cả đã mệt nhoài.
Mọi người đi nghỉ sớm để sáng mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ
“bính-boong” lúc 5 giờ sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.
Riêng mình tôi biết bu tôi khóc. Tôi chẳng nói
cho ai hay, nhưng tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau
hè nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa nước mắt
theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của khổ đau kéo cành chè
gẫy xuống.
Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói bên kia
vườn, cách bụi tre, vẳng sang:
– Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế! Hãy để cho Quán
nó yên nghỉ.
Đó là tiếng của cụ Dưỡng, tức chú ruột của
thầy tôi.
Chắc cụ cũng xót ruột vì tiếng khóc mỗi chiều
tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu nên phải vâng lời chú chồng, từ đó bu
tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng nỗi sầu vì nấm mồ chôn chồng chưa
xanh cỏ thì làm sao vơi nên nước mắt tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn
trong góc bếp, giữa đêm khuya.
Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng
quê miền Bắc trong căn nhà lá vách phên nên có nhiều khe hở để gió lùa vào. Anh
em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò
đầu, cái lạnh đêm khuya lại thêm cái dạ trống, đúng với câu “bụng đói cật rét”
nên giấc ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vừa gáy, tôi thức giấc, thấy
ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy và mon men tới gần để sưởi cho ấm thì
thấy bu tôi ngồi nấu cám heo, một tay cầm que, tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp
cho lửa cháy, bóng mẹ tôi in lên vách, ngả nghiêng theo ánh lửa bập bùng. Đêm
khuya, thấy con thức dậy bò xuống bếp thì bà mẹ biết con đang thiếu cái gì. Vừa
trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:
– Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu
nướng cho con củ khoai.
Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ
lép-bép làm bắn ra những tia lửa nhỏ tựa pháo bông, kéo theo tro bụi phủ lên
người ngồi nấu. Bu tôi đứng dậy khẽ phủi tro tàn trên khăn tang trắng rồi lấy
củ khoai lang ở cái thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu rau”.
Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi
bếp tro” là gì, mùi vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của bu tôi hiện
nay đang sinh sống trên đất Mỹ cũng không biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang
vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho tôi không có gì so sánh được. Người ta thường
dùng chữ “ban” để nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế, Chúa, Phật ban cho con
chiên, Phật tử, nhưng bu tôi đã “ban” cho tôi củ khoai nướng vùi bếp tro giữa
đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ
con.
Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm
rơm chà lên vỏ ngoài cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:
– Khoai còn nóng lắm, con ăn từ từ.
Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon ngọt với
trẻ em miền quê, nếu em đói mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng
phải hả miệng ra, ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”, ăn vụng mà nuốt vội miếng
khoai lang dễ bị nghẹn. Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng
thì thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn hằng ngày của tôi biến đi
đâu mất. Tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ củ khoai ra làm
hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời nào cả. Biết nói gì hơn, và dù văn
hay chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy, ngàn vạn lời nói cũng không đủ. Tôi đưa nửa
củ khoai cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì
trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya tôi thấy mắt bu tôi đỏ. Tôi đưa nửa
củ khoai cho bu tôi vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng bà nhường miếng ăn cho
con, như tất cả các bà mẹ khác.
Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi
không nói gì cả nhưng lại choàng tay qua kéo tôi vào lòng, tay kia xoa đầu con.
Tôi biết bu tôi đang thổn thức và rồi bà khẽ nói:
– Con lên đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để
còn kịp ra đồng.
Hai tiếng “ra đồng” là chỉ công việc ngoài
đồng ruộng như cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng
bắp (ngô) v.v… Những công việc của nhà nông để làm ra thực phẩm mà người thành
phố, nhất là các bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có thể hình dung ra
được nó vất vả như thế nào.
Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc
quây quần dưới mái tranh được bao quanh bởi lũy tre xanh, rồi bị chạy loạn vì
chiến tranh. Khi hồi cư về làng cũ thì chỉ còn hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại
chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con đi, không
biết đi về đâu và làm gì? Những lúc gian nan khốn khổ như thế chắc hẳn bu tôi
lại kêu tên thầy tôi và mong chồng chỉ lối đưa đường cho vợ góa, con côi được
về nơi bình an.
Cuối cùng thì gia đình tôi làm dân di cư trôi
dạt vào Nam, về làng Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương năm 1954. Người
nông dân thường có sức chịu đựng như “cỏ dại”, vất đâu cũng sống được với đất,
nhưng mẹ con chúng tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có hai bàn tay nên
phải xoay sở. Các anh chị tôi lúc này đã trưởng thành nên phiêu lưu về thành
phố và gia đình tôi lại di chuyển về 172/41 đường Lê Quốc Hưng, Khánh Hội, quận
Bốn, Saigon.
Bu tôi, một bà mẹ quê lạc về thành phố, bỏ lại
sau lưng xa tít mù khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn, mồ chồng mà sẽ không
bao giờ được nhìn lại nên bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau khi đã có
tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là giây phút hạnh phúc
nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác, thương cháu chăm sóc cháu hơn thương
con.
Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái bình với
cháo rau đạm bạc bên con cháu cho tới lúc đầu bạc răng long thì chiến tranh lại
tràn về. Các con trai, con rể của cụ lên đường tòng quân, thằng Cao Nguyên, đứa
Đông Hà, em tôi ở núi Sơn Chà Đà Nẵng thì tôi ở mãi tận mũi Cà Mâu. Đâu đâu
cũng nghe tiếng súng nổ. “Đại bác đêm đêm vọng về thành phố” thì bà mẹ quê khốn
khổ thức giấc ngồi tựa lưng vào vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc
thầm chuỗi Mân-Côi cầu xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con nơi lửa đạn.
Nhớ lại lúc tôi nhận được giấy gọi đi trình
diện Không Quân và Võ Bị cùng một ngày, đang phân vân chưa biết chọn nơi nào
thì bu tôi bảo:
– Con đừng đi lính tầu bay, thấy tầu nó bay
bay thì bu sợ lắm. Con lên Đà Lạt mà học, vì ở đó có chị Hải của con, chị con
sẽ săn sóc cho con thì bu an tâm hơn.
Chị ruột tôi ở số nhà 16C Phạm Ngũ Lão, tôi đã
lên đây nghỉ Hè nhiều lần rồi. Thấy Sinh Viên Sĩ Quan Võ Bị là tôi mê, nay có
thêm lời khuyên của bu tôi nên tôi chọn Võ Bị. Tuy không được bà chị săn sóc,
nhưng lại được nhiều đàn anh săn sóc tận tình hơn, nếu bu tôi mà biết “tận
tình” như thế nào thì chắc là cụ khóc ngất. Ngày tôi ra trường, bu tôi lên Đà
Lạt dự lễ mãn khóa để xem tôi mang lon “quan một” nó ra sao, nhưng mục đích
chính là bảo anh rể tôi làm Cảnh Sát: “Sắp xếp làm sao cho tôi làm việc tại Đà Lạt
cho có chị có em”, cho bu tôi an tâm (!).
Thế rồi, bu tôi thấy tôi đội mũ beret xanh
Thủy Quân Lục Chiến, cụ lo lắng. Vì một anh rể khác của tôi ở TQLC đã bị thương
nhiều lần nên tôi phải nói dối cụ là tôi được làm văn phòng ở Thủ Đức, gần nhà
hơn.
Nhưng rồi tôi đi biền biệt, từ Bến Hải đến mũi
Cà Mâu, chẳng có ngày phép để về thăm mẹ già! Đời lính chiến là vậy, còn bu tôi
thì hằng ngày vẫn thót con tim mỗi khi thấy xe GMC chở quan tài phủ cờ chạy qua
cửa. Khi nghe mấy bà hàng xóm kháo nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của
lính chết trận thì bu tôi vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.
Rồi một ngày tháng 6/1966, một xe GMC/TQLC
chạy vào xóm và từ từ dừng lại, khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng người
lính TQLC tìm nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là người cùng quê, để báo tin
con trai bà là thằng Mão đã tử trận. Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo lắng xỉu
theo, vì Mão và tôi là bạn và cùng tình nguyện vào TQLC. Mão ở Tiểu Đoàn 1, tôi
ở Tiểu Đoàn 2. Cả hai vừa đụng trận tại ngã ba sông Đinh thuộc Bích La Thôn,
Quảng Trị. Nó tử thương, tôi bị đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên tôi đã
nói với hậu trạm là đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu trạm rồi
hậu cứ ở Thủ Đức cứ theo đúng thủ tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe
jeep TQLC đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi. Người báo
tin chưa kịp nói gì thì bu tôi ngã xuống bất tỉnh và không còn biết gì nữa!
Vì bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để
đi phép về thăm nhà. Bu tôi đang nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, thấy tôi về,
cụ ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con
lắc lắc như muốn biết đây là thực hay chiêm bao? Bu tôi không nói gì mà chỉ
khóc. Cụ khóc vì lo âu, cụ khóc vì còn cầm được tay con vừa từ mặt trận trở về.
Những bà mẹ lính chiến thấy mặt con lúc nào
thì được hạnh phúc lúc đó, còn suốt ngày dài lại đêm thâu chỉ toàn là sầu khổ
vì nghĩ đến con ngoài chiến trường. Tôi xin mượn ý bài thơ Màu Tím Hoa Sim:
“Không chết người con lính chiến mà chết người mẹ hậu phương.” Người lính chiến
nếu có chết, chỉ chết một lần, nhưng những bà mẹ hậu phương thì chết dần chết
mòn, chết khi nghe “đại bác đêm đêm vọng về thành phố”, chết giấc khì thấy con
“trở về trên đôi nạng gỗ”.
Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy
mấy đứa con, đứa cháu trong họ, cùng đi TQLC lần hồi tử trận như Tô Thanh
Chiêu, Tô Văn Sơn, cháu ngoại Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh v.v… Cuối cùng thì ngày
19/6/1969, trên con kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã
loại tôi ra khỏi vòng chiến. May mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v.., tôi còn
nặng nợ, chưa “đi được” nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên giường bệnh viện,
toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu
tôi đang lấy tay cạy những vết máu, vết sình đã khô trên mặt tôi. Tôi mấp máy
đôi môi, gọi qua hơi thở của bình dưỡng khí:
– “Mẹ.”
Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi
quen với chữ “Mẹ” từ đó.
Tôi bị trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến
thì cũng là lúc mẹ tôi bớt được một phần lo âu. Thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ
kẹp nách quanh quẩn xó nhà thì mẹ tôi lại mỉm cười:
– Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo.
Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc
quanh quẩn một thời gian bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không
biết đọc mà chỉ biết khóc vì con. Thế rồi đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp
tục vất vả vì các con.
Lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu
kỉnh nhìn mẹ rồi tôi vất đôi dép cao su làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để
vào túi xách cho tôi lên đường “học tập vinh quang”.
Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai
người anh rể đều lên đường để “được cải tạo” làm con người! Chẳng cần nói thêm
thì ai cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”. Nghe
hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và dép râu cho các
con để sớm được về đoàn tụ!
Quá khứ đời tôi lính chiến đã khiến mẹ lo âu
sợ hãi nhưng chưa lần nào tôi hỗn với mẹ như lần này. Tôi lôi đôi dép cao su và
bộ quần áo đen ra khỏi túi xách và quăng nó vào góc nhà. Mẹ tôi nhìn sững tôi
và chắc bà tự hỏi tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để
sớm được về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được tình thương mênh mông của bà mẹ quê
trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang “chín” từng khúc ruột. Tôi
lẳng lặng cầm túi xách lên đường, không lời chào từ giã mẹ già đang ngồi tựa
lưng vào vách mà mắt nhìn theo gót chân con.
“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ
thấy mẹ. Linh tính cho biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà mỗi khi đến
thăm nuôi thì được biết mẹ tôi vẫn bình thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong
giấc mơ, tôi đem chuyện hỏi lại thì lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách ra
một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo những lần trước nhưng vẫn dấu
kín. Tôi không còn nước mắt để khóc mẹ vì tôi đã không chào mẹ khi ra đi, không
biết rằng đó là lúc chào lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh biệt ai. Mẹ tôi khóc
vì các con phải đi xa khi đất nước đã thái bình khiến mẹ tôi mù lòa. Mẹ tôi ra
đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!
“Lòng mẹ thương con như biển Thài Bình dạt
dào.”
Lòng mẹ như bị dao chém mỗi khi nghe tin con
“thắng trận” trở về, “trở về trên đôi nạng gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa!”
Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong vài
trang giấy. Những bà mẹ, dù quê hay thành phố, đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ Việt Nam
thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo đời sống thăng trầm của các con, không vui
khi các con không vui với nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính
chiến luôn canh cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu: “Lá vàng còn ở trên cây,
lá xanh rụng xuống, trời hay chăng trời?”
Những ai còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì xin chớ có cử chỉ đáng trách như tôi đã phạm đối với “Bà Mẹ Quê” để khỏi phải ân hận khôn nguôi
No comments:
Post a Comment