CHUYỆN CŨ… CÓ THỂ NÀO QUÊN…
Tác giả: Nguyễn
Ngọc Ngạn
Ðời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương
hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu
trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến
nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời.
Ðó là trường hợp của
tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn
thấy hiển hiện như mới hôm qua…Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình
hình chính trị còn cực kỳ khắt khe. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa
năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ
không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được
tạm trú 3 tháng tại Sàigòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới.Thời gian này, miền
Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do. Những người ở vào hoàn
cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm
đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài
chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.Thời gian
trôi quá nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu
không hộ khẩu tại thành phố.
Giữa lúc lao đao tuyệt
vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu
cho tôi một đầu cầu quý giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa
50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện
trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim
Cosunam ở Sàigòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ
em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho
người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đo'. Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em
tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng? Ði bán chính
thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu Có người nộp tới 12 hoặc 14
cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn giá trung bình thì ít ra cũng phải
10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!Bà xã tôi bận
con nhỏ – khi tôi đi tù thì cháu mới hơn một tuổi – cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn,
đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ
vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng
cả chục lượng vàng, là điều vượt quá sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ!
Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11,
gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông
Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu
từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn
ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy. Trước năm 75, tôi có dạy một
ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh
Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng.
Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi
với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch,
nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một
khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng
muốn trốn đi.
Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở
nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ
chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi. Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng
vàng, qua Mỹ đi làm trả lại. Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà
thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có
lúc gặp quý nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông
Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, việc
ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ
mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78.
Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gi. Lúc đó bà 39 tuổi,
thua chồng hơn 10 tuổi. Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau
đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần
200 lượng vàng!
Những ngày hồi hộp trôi
qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường.
Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy
lớp bổ túc văn hoá ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu
vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói
dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang
gầm thét dữ dội ngoài khơi.Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến
Hoà, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên
tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình
em trai tôi gồm 4 người.
Em trai tôi là người giới
thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang,
ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng
gió sắp tới.Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến
hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm.
Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới
hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa. Họ gạch tên bỏ lại
17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng
hơn.Ðây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch
để đưa người vượt biển. Hơn 100 nguời đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm
không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên
trên ném thức ăn xuống. Ðàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân
nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không
được liên lạc với vợ con nữa.Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi
dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh
toàn là tiếng Hoa. Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm
bên cạnh tôi. Vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con
út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi.Vì là người Việt, không dám tranh
cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận
tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực.
Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu
mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi.
Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng
vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong. Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất
cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu
mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm
đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại
nổi lềnh bềnh chung quanh, Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quýt, vỏ bưởi cùng các thứ
linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển.Vì
quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên
không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết
ý niệm thời gian, không gian ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng
tại chỗ. Ðến ngày thứ năm, vì nóng bức quá, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm,
tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu
tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người
phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với
tôi, sau mệt quá, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình
dài lê thê.
Bước sang ngày thứ bảy,
buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng
gọi nhỏ:
- Anh Ngạn,
Anh Ngạn ơi!
Tôi giật mình ngơ ngác
ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô? thông hơi để tìm tôi.
Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết
vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy. Tàu chật
ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn,
tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người
còn đang ngủ cả. Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại
và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ:
- Lên đi
anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!.
Tôi lo lắng nhìn quanh.
Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài
21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng là sắp phải đem
tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức,
mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo:
- Ðêm qua
bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh
tím cả ngườị , Anh lên một chút đi!.
Nghe nhắc đến đứa con
hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vài người đang ngồi ngủ, rồi chui
liền lên, cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng
tôi không có cảm giác gì lúc đó. Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của
Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi
hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bâygiờ đứng dậy, vội vã dùng
hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm
tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm,
nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con
đang run cằm cặp.
Nhà tôi ưu tư bảo:-
Tầu sắp đắm mất, anh ạ!
Tôi đảo mắt nhìn quanh
sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận
ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng
tầu đang chạỵ Hoá ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa
và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên
không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên
nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy
kinh hoàng, Tôi nhìn lại phía buồng máy. Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương:
không có tài công, không có người phụ máy. Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh
nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy
trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vở.
Ðàn bà con nít, nguời đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi
nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nàỵ Bà xã tôi bảo:
- Tài công
bỏ tầu từ nửa đêm rồi!
Bấy giờ tôi mới hiểu đầu
đuôi câu chuyện. Ðêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa
cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi. Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn
pha trên bờ bắn ra xối xa. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe
đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô. Nhưng rồi
họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợi. Người đã lên bờ thì bỏ mặc.
Ðàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu. Hơn 100 người ngồi dưới hầm
thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường!
Tôi biết mình sắp chết,
nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:- Con ơi! Ðằng nào tầu cũng sắp
chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào…
Tôi không biết bơi. Mà
có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở quá xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ
thấy lờ mờ trong mưa. Ðứa con trai hơn 4 tuổi, quấn chiếc khăn quanh người ướt
đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng
linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh
tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lốc trên sàn.
Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:
- Em lấy
cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy
xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu
chặt lấy nhau và cùng chết hết!
Vợ tôi nhìn tôi bằng
ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu
Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi
cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc
tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu rú
lên, bị tiếng gầm của sóng át đi Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc
tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo quá
nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em. Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn
khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ
giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa! Ðứa con tôi
cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển.
Tôi níu được một sợi
giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính chứ chưa rơi hẳn xuống
nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng
khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra
phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai. Tất cả đều rụng
xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần
này tan tành hết.
Nhưng đau đớn hơn cả là
chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người
đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong
đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi!Tôi rớt xuống
biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt
biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu,
rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt
khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Ðàn bà con nít ngụp
lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng
phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được
một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người
Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời.
Ðọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được…Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết
tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kinh qua bao nhiêu năm gian khổ. Ngày còn trong
quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay
trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại
bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về.
Vậy mà cũng không sao! Tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại
chết? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi
tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa!Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm
sấp trên đống xác chết ngổn ngang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh.
Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm baọ.
Ðứa con trai 13 tuổi của
ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:
- Chú Ngạn
ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Ðắm tầu, chú Ngạn ơi!
Tôi ngơ ngác nhìn nó,
chưa nhận ra ai bởi quá đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và
nhắc lại:
- Chú Ngạn
ơi! Ðắm tầu! Ba cháu, chị cháu với ba người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với
con chú cũng chết cả rồi!
Tôi vùng đứng dậy, đưa
mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những gười sống sót vào gốc dừa. Họ cũng
như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần.
Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu,
tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy.
Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy dang lột quần
áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt
áo. Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chờ xe mang đi chôn tập
thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết
hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi,
còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất,
không tìm dược xác!Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn
ầm ầm gào hét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc
thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển,
thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa, nhưng cũng
không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác,
phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và
nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.
Trên bãi biển Mã Lai
dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường
tượng lại chặng đường đã qua. Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở
Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây
chờ tôi ở hậu cứ Tiểu Đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân,
không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Ðức Chính trên
đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quà nặng trĩu đi tiếp tế
cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước
Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh
thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình
tìm tự do!Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy
tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao
nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi
tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sàigòn, đã tưởng vợ chồng có
thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt
đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Ðoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc
lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn
4 tuổi!Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi.
Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót,
trước khi đắm tầu. Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới
hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi – người giới thiệu tôi cho ông Ân – nếu
đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại,
nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại
Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào
bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng
vàng chồng bà cho tôi vay.
Nguyễn Ngọc Ngạn.
No comments:
Post a Comment