Liệu Việt Nam có thành con hổ
châu Á mới?
17/10/2020
Một công nhân làm việc ở nhà máy xe hơi
Ford ở tỉnh Hải Dương
Với lực lượng lao động rẻ, được đào tạo
tốt, cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, nền kinh tế có độ mở cao, chính trị ổn
định, khả năng kiểm soát dịch bệnh cùng bối cảnh chiến tranh thương mại, Việt
Nam hiện đang có nhiều lợi thế để trở thành con hổ kinh tế mới của châu Á, các
chuyên gia nhận định.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng lưu ý gánh
nặng các tập đoàn quốc doanh và những cản trở trong môi trường kinh doanh ở Việt
Nam, nhất là vấn đề tham nhũng, sẽ đặt ra những thách thức cho sự phát triển của
quốc gia này trong thời gian tới.
Theo báo cáo ‘Triển vọng Kinh tế Thế giới’
vừa được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố, GDP của Việt Nam trong năm 2020 ước
tính ở mức 340 tỷ đô la Mỹ, vượt qua Malaysia và Singapore và dự đoán sắp sửa vượt
qua cả Philippines (hiện có GDP 367 tỷ đô la) để trở thành nền kinh tế lớn thứ
ba trong khu vực, sau Indonesia và Thái Lan.
Mở cửa và xuất khẩu
Trong bài viết có tựa đề ‘Việt Nam sẽ là
điều thần kỳ mới ở châu Á?’ đăng trên tờ New York Times, ông Ruchir Sharma, chiến
lược gia trưởng toàn cầu tại hãng quản lý đầu tư Morgan Stanley và là tác giả của
cuốn ‘Mười nguyêntắc của các quốc gia thành công’, dự đoán Việt Nam sẽ theo chân
các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để làm nên ‘điều thần kỳ kế tiếp’ ở
châu Á.
“Sau Đệ nhị Thế chiến, những ‘điều thần
kỳ châu Á’ - đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là Đài Loan và Hàn Quốc, gần đây nhất
là Trung Quốc - đã vươn lên thoát nghèo bằng cách mở cửa cho thương mại-đầu tư
và trở thành trung tâm sản xuất, xuất khẩu. Giờ đây, Việt Nam đang theo con đường
tương tự, nhưng trong một thời đại hoàn toàn mới,” tác giả này viết.
Ông đưa ra so sánh rằng ‘trong những năm
bùng nổ, những điều thần kỳ châu Á đầu tiên đã có mức tăng trưởng xuất khẩu hàng
năm đạt gần 20% - gần gấp đôi mức trung bình của các quốc gia có thu nhập thấp
hoặc trung bình vào thời điểm đó và Việt Nam đã duy trì tốc độ tương tự trong
ba thập kỷ’.
Ngay cả khi thương mại toàn cầu sụt giảm
trong những năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 16% mỗi năm, tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trên thế giới và gấp ba lần mức trung bình của các nước mới nổi,
ông Ruchir Sharma lưu ý.
Để phục vụ cho nền kinh tế hướng xuất khẩu,
Việt Nam đã dành nguồn lực để xây dựng đường sá, bến cảng để đưa hàng hóa ra nước
ngoài và xây dựng trường học để đào tạo nhân lực trong khi các nước mới nổi khác
chi mạnh tay cho phúc lợi xã hội nhằm lấy lòng cử tri, cũng theo chuyên gia này.
Việt Nam hiện được xếp hạng cao về chất
lượng cơ sở hạ tầng so với bất kỳ quốc gia nào trong giai đoạn phát triển tương
tự, ông nói.
Về thu hút đầu tư nước ngoài, trong 5 năm
qua, ông Sharma cho biết đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt trung bình
hơn 6% GDP, tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ quốc gia mới nổi nào. Phần lớn số tiền
đó đổ vào xây dựng các nhà máy chế tạo và cơ sở hạ tầng liên quan, và phần lớn đầu
tư đến từ các nước châu Á khác như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.
Chuyên gia của Morgan Stanley này chỉ ra
rằng Việt Nam đã trở thành điểm đến ưa thích cho các nhà sản xuất rời bỏ Trung
Quốc để tìm nhân công rẻ hơn. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm ở Việt Nam đã
lên gần 3.000 đô la Mỹ, tức tăng gấp 5 lần so với cuối những năm 1980, trong
khi chi phí nhân công vẫn chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc, và nguồn nhân lực
này được đào tạo tốt hơn một cách khác thường so với mức thu nhập của họ.
Kiểm soát dịch tốt
Ông nêu bật việc Việt Nam đang dịch chuyển
từ các sản phẩm công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn và khen ngợi độ
mở của nền kinh tế Việt Nam với hàng loạt hiệp định thương mại lớn.
“Nguồn lao động có trình độ đó đang giúp
Việt Nam ‘leo lên các nấc thang’, có lẽ nhanh hơn bất kỳ đối thủ nào, để sản xuất
những mặt hàng ngày càng phức tạp. Sản phẩm công nghệ đã vượt qua may mặc để trở
thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam vào năm 2015, và chiếm phần lớn
thặng dư thương mại kỷ lục của nước này trong năm nay,” tác giả trình bày trong
bài báo.
“Trong kỷ nguyên bảo hộ, Việt Nam lại đi
ngược chiều hướng và quay sang ủng hộ mở cửa biên giới – chính quyền cộng sản nước
này đã ký kết hơn một chục hiệp định thương mại tự do - trong đó có một thỏa
thuận trọng đại mới được ký kết với Liên minh châu Âu là EVFTA.”
Việt Nam cũng đã tận dụng cơ hội các nước
khác đang lao đao vì dịch bệnh để đối phó tốt với dịch. “Kiểm soát đượcđại dịch
đã cho phép Việt Nam nhanh chóng mở cửa nền kinh tế trở lại và hiện nước này đang
được dự đoán là nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong năm nay,” ông
viết.
Ông đưa ra dẫn chứng là trong khi nhiều
nước đang bị sụt giảm tăng trưởng nặng nề và phải tìm đến Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) xin giải cứu thì Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ 3%t trong năm nay. Ấn
tượng hơn nữa, tăng trưởng đó là nhờ vào thặng dư thương mại kỷ lục, bất chấp
giao thương toàn cầu sụp đổ vì dịch bệnh.
Môi trường khó khăn hơn
Tuy nhiên, so với những con rồng châu Á
ban đầu, những điều kiện thuận lợi hiện nay không còn nữa, ông Ruchir Sharma lưu
ý. Đã qua rồi thời kỳ toàn cầu hóa nhanh chóng, với dòng chảy thương mại và đầu
tư ngày càng tăng. Tăng trưởng kinh tế đang chậm lại trên toàn thế giới. Trong
môi trường này, các cường quốc không còn bỏ qua các chiến thuật mà các nước châu
Á trước đó đã tận dụng để có lợi thế.
Tuần trước, Hoa Kỳ chính thức cáo buộc
Việt Nam thao túng tiền tệ và khởi xướng cuộc điều tra tương tự như cuộc điều
tra vốn khơi mào chiến tranh thương mại với Trung Quốc, ông cảnh báo.
Sự lãnh đạo của một đảng độc tài gần nửa
thế kỷ được kinh tế gia này cho là ‘mối đe dọa thậm chí còn lớn hơn nữa đối với
tăng trưởng liên tục của Việt Nam’. “Nếu không có đối lập, đảng độc tài có thể
thúc đẩy tăng trưởng rất nhanh, nhưng thường những chính sách tùy hứng không được
kiểm soát của họ dẫn đến các chu kỳ bùng nổ và sụp đổ thất thường, cản lại sự
phát triển,” ông nhận định.
“Liệu Việt Nam có thể tiếp tục thành công
này, bất chấp những thách thức tiềm tàng như dân số sụt giảm, thương mại giảm sút
và chính phủ độc tài vẫn tiếp tục nắm quyền? Có thể được,” ông lập luận. “Mặc dù
tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động ở nước này đang chậm lại, phần lớn người
Việt Nam vẫn sống ở nông thôn, do đó, nền kinh tế có thể tiếp tục phát triển bằng
cách dịch chuyển lao động nông ngiệp sang các nhà máy ở thành thị.”
Theo ông, cho đến nay, chính phủ Việt
Nam đã không có sai lầm chính sách nghiêm trọng vốn thường làm chậm tăng trưởng
kinh tế ở các quốc gia chuyên chế khác. Do đó, ông nhận định ‘chủ nghĩa tư bản
chuyên chế đang có hiệu quả ở Việt Nam một cách khác thường thông qua các chính
sách kinh tế mở và quản lý tài chính khôn ngoan’.
Tuy nhiên, ông cũng dự báo Việt Nam có
thể xảy ra vấn đề ở khu vực kinh tế nhà nước vốn chiếm phần lớn nợ xấutrong hệ
thống ngân hàng. Mặc dù sau nhiều đợt cổ phần hóa, nhà nước nắm quyền sở hữu ít
tập đoàn hơn, nhưng những công ty mà họ sở hữu vẫn rất lớn và chiếm gần một phần
ba sản lượng kinh tế.
“Cần lưu ý rằng các khoản nợ tăng cao cũng
dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính đánh dấu sự kết thúc tăng trưởng bền vững
ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, và giờ đây là cả Trung Quốc,” ông viết.
‘Điểm son’
Trong khi thế giới khốn đốn vì dịch
Covid thì Việt Nam không mấy hề hấn và điều này đã giúp Việt Nam vươn lên rất
nhiều, Giáo sư-Tiến sĩ Khương Hữu Lộc giảng dạy chương trình MBA tại Keller
Graduate School of Management tại Mỹ nhận định với VOA.
“Dịch Covid-19 đã khiến kinh tế
Philippines suy thoái trầm trọng, giảm đến 7-8% trong khi Việt Nam vẫn tăng 3%,”
ông chỉ ra và nói ông tin quy mô kinh tế Việt Nam sẽ vượt Philippines ngay
trong năm nay.
Ngoài ra chiến tranh thương mại Mỹ-Trung
cũng khiến Việt Nam được lợi nhờ tăng cường xuất khẩu vào Mỹ, ông nói thêm.
“Mỹ là nền kinh tế lớn, tiêu thụ nhiều.
Một khi Mỹ bớt mua của Trung Quốc và quay sang mua hàng của Việt Nam thì chỉ một
phần nhỏ trong số đó cũng giúp gia tăng kinh tế Việt Nam,” ông chỉ ra và dẫn chứng
là giao thương của Việt Nam với Mỹ đã tăng 30% so với năm ngoái.
Tiến sĩ Lộc nêu ra những ‘điểm son’ của
Việt Nam so với các nền kinh tế láng giềng khác là: có trên 20 hiệp định thương
mại tự do trong đó có những hiệp định lớn như RCEP, EVFTA, CPTPP; vị trí địa lý
thuận lợi với nhiều hải cảng và đầu tư nhiều vào giáo dục và hạ tầng.
“Điểm son hơn hết là Việt Nam hiện tại dân
số gần 100 triệu, trong đó 65-70% là dưới 37 tuổi. Trên 10 năm nay Việt Nam đã đầu
tư khoảng 8% GDP vào cơ sở hạ tầng và giáo dục,” ông nói và cho biết tỷ lệ đầu
tư này là gấp đôi Philippines.
Do đó, ông nhận định rằng Việt Nam ‘có
điều kiện thuận lợi để bỏ qua những ngành công nghệ thấp và đi vào kỹ nghệ cao
hoặc ít nhất là kỹ nghệ trung’.
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đang
đi về hướng kỹ nghệ cao đó,” ông lưu ý và cho rằng Việt Nam cần xây dựng những
tập đoàn lớn thì ‘mới có đủ tiềm lực tài chính, công nghệ để tập trung vào nghiên
cứu, phát triển’.
“Việt Nam cần có khả năng sáng chế, chế
tạo và tiếp nhận chuyển giao công nghệ,” ông khuyến nghị và cho rằng Việt Nam
không thể dựa vào công nghệ nước ngoài mãi.
Thách thức
Tuy nhiên, vị giáo sư này cảnh báo môi
trường kinh doanh ở Việt Nam dù có tiến triển nhiều trong những năm qua vẫn còn
thua xa các nơi khác như Hong Kong hay Singapore vì những luật lệ, thủ tục và ‘chi
phí bôi trơn.’
“Việt Nam hiện giờ tham nhũng có giảm bớt
nhưng vẫn nằm trong nhóm tham nhũng nhất thế giới,” ông lưu ý. “Việt Nam chắc
chắn cần phải cải thiện.”
Ông cũng chỉ ra bài học từ Nhật Bản là
sau hàng chục năm tăng trưởng liên tục, nước này đã chựng lại trong vòng 20 năm
qua ‘vì số nợ của các tập đoàn quá lớn’.
Ông cảnh báo số nợ của các tập đoàn nhà
nước hiện nay vẫn rất nhiều mặc dù đã được cổ phần hóa. “Nếu không cẩn thận và
tư hữu hóa dần dần thì các tập đoàn này sẽ vỡ nợ,” ông Lộc nói.
Về lợi thế xuất khẩu của Việt Nam, chuyên
gia này khuyến cáo nên ‘đa dạng hóa’ chứ không nên tập trung vào một số thị trường
như Mỹ, châu Âu hay Trung Quốc để giảm thiểu rủi ro.
Dẫn ra việc Việt Nam được xếp vào nhóm ‘tiểu
hổ’ châu Á cùng với Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines, Tiến sĩ Lộc dự
đoán rằng trong vòng 5-7 năm nữa, nền kinh tế Việt Nam ‘sẽ vượt Thái Lan’ trở
thành quốc gia lớn thứ hai trong khu vực.
No comments:
Post a Comment