SỰ TÍCH BÀI THƠ HÔN CỦA PHÙNG QUÁN
Khi người ta yêu nhau / Hôn nhau trong say đắm / Còn anh, anh
yêu em / Anh phải đi ra trận ! Nhưng:
Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu!
Nhưng dù chết em ơi/
Yêu em anh không thể /
Hôn em với đôi môi /
Của một người nô lệ!
Âm hưởng bài thơ giống như khẩu khí thơ của các nhà
thơ cộng sản Nadim Hikmet, Petophi. Bài thơ viết năm 1954, khi Phùng Quán 22 tuổi.
Đọc bài thơ tôi cứ ngỡ nhà thơ viết tặng một cô gái nào đó mà anh từng
yêu thương, nhớ nhung dọc đường ra trận. Nhưng không phải! Sự tích bài thơ bi
hùng hơn rất nhiều. Tôi dùng chữ “sự tích” vì đây là một câu chuyện dài, đầy chất
anh hùng ca, liên quan đến “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán.
Điều cực kỳ thiêng liêng và cảm động là
bài thơ "Hôn" là một đoạn được trích ra từ Thiên hùng ca ấy, viết về
tình yêu của người chiến sĩ thật có tên là Phùng Huấn!
Tháng 7/1992, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân có bài viết
“Tìm được hài cốt của 17 liệt
sĩ hy sinh từ năm 1946” in trên Báo Lao Động. Bài báo kể lại: Ngày
4/6/1992, trong lúc đào móng cải tạo công trình nhà của Uỷ ban Khoa học kỹ thuật
tỉnh Thừa Thiên Huế tại 18 đường Hà Nội, TP Huế, người ta phát hiện ra 17 bộ
hài cốt Vệ quốc đoàn. Trong đó, một bộ hài cốt có sợi dây chuyền nhỏ có đeo lủng
lẳng một miếng nhôm, rửa sạch miếng nhôm hiện lên dòng chữ khắc: "Phùng Huấn-
VQĐ- Thuận Hoá". “VQĐ” là Vệ quốc đoàn, còn Phùng Huấn là anh con bác của
ông Phùng Bốn (tức ông Nguyễn Vạn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế), chú
ruột của Phùng Quán. Đọc bài báo đó, Phùng Quán bàng hoàng nhớ lại thiên anh
hùng ca mình đã viết 30 năm trước...
“...Nhân vật mà tôi mất nhiều công sức nhất
để để miêu tả và khắc họa tính cách với cả trăm câu thơ, là nhân vật chiến sĩ.
Anh tên là Phùng Huấn, xuất thân nông dân, quê ở làng
Thanh Thủy Thượng. Phùng Huấn yêu một cô gái làng, sắp làm lễ cưới. Mặt trận Huế
bùng nổ, anh hoãn ngày cưới, cùng nhiều trai làng xung phong gia nhập Vệ quốc
đoàn. Anh được tuyển chọn vào cảm tử quân... Bài thơ "Hôn" là
tôi trích ra từ Thiên hùng ca ấy:
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn!
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ!
Đó là lời của Phùng Huấn nói với vợ chưa cưới của mình trước giờ
xung trận. Phùng Huấn là bác họ của tôi. Trong Thiên hùng ca tôi không nói chi
tiết này, chỉ miêu tả mỗi lần chúng tôi đứng cạnh nhau, cả đơn vị ai cũng lầm
là hai anh em ruột. Trong đội cảm tử quân, Phùng Huấn được phân công vào “Tổ vũ
khí nặng”. “Vũ khí nặng” Phùng Huấn phụ trách là một cặp đầu đạn đại bác 75 ly
tịt ngòi được công binh xưởng biến báo thành mìn đánh xe tăng... Tổ “vũ khí nặng”
là siêu cảm tử nên mỗi chiến sĩ được Mặt trận phát một chiếc “lập lắc” bằng
nhôm cứng, trên mặt khắc tên họ, giây đeo bằng thép không rỉ, để lỡ hy sinh xác
người nọ khỏi lẫn xác người kia...
Bữa ăn đó, cũng được kể trong bài báo Lao Động
nói trên, qua lời kể của người vợ chưa cưới của liệt sĩ Phùng Huấn:
"Vợ
chưa cưới của đồng chí Phùng Huấn, đã 70 tuổi, từ xã Thủy Dương (tên mới của
làng Thanh Thủy Thượng), chống gậy lên thăm hài cốt của người yêu xưa. Bà kể:
Chiều đó tôi lên thăm anh ấy, rủ anh đi ăn. Anh ấy nói: "Tối nay đi đánh
Pháp, thế nào cũng được ăn một bữa thịt bò, bây giờ ăn ngang bụng". Anh ấy
không đi. Thấy trên tay anh có đeo một cái “lập lắc”, tôi hỏi: "Người ta
đeo vòng vàng xuyến bạc, còn anh đeo chi miếng thiếc ni?”. Anh nói: "Đơn vị
bảo đeo. Đi đánh giặc lỡ có chết người ta biết tên mà nhận xác". Tôi tưởng
anh nói chơi, ai ngờ anh chết thiệt. Từ sau đó gia đình cứ lấy ngày 10
tháng chạp giỗ anh ấy".
Trận “cảm tử” vào nhà hàng Sápphănggiông đêm ấy
không kết quả. Toàn đơn vị rút ra căn cứ cả, còn Trung đội cảm tử bị mắc kẹt lại
ở trong ngôi nhà hai tầng. Địch bắn như điên, kêu gọi đầu hàng, các anh vẫn
chống trả quyết liệt. Giặc phun xăng đốt ngôi nhà. Các chiến sĩ đã xuống tầng
trệt, dùng bộc phá nổ tung ngôi nhà, biến ngôi nhà thành ngôi mộ chôn
chung của 17 anh em!
Ôi, 46 năm sau, cô gái trong bài thơ "Hôn"
của Phùng Quán mới gặp lại hài cốt người yêu của mình! Ngày xưa ở Huế, đối với
con gái nhà lành, chuyện hôn nhau vô cùng hệ trọng, nhà trai đi hỏi rồi vẫn chưa
dám hôn nhau, chờ khi cưới. Cho nên:
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Hiểu sự tích bài thơ, ta càng muôn lần cám ơn nhà
thơ Phùng Quán, anh đã lấy "Tuổi thơ dữ dội" của mình làm chất liệu để
viết nên những câu thơ tình thế kỷ, đẹp như kinh cầu nguyện!
Minh Khôi
No comments:
Post a Comment