Đính chính.
Ara chân thành xin lỗi các bác, vì trong lúc u
mê, hắn đã viết lầm "hai chữ" là câu trở nên ngô nghê, lúc sáng ra
ngồi uống café rảnh rỗi xem lại mới biết, nên xin sứa lại
"...
Bắt ta nào phải kiém cung
Vì con mắt đẹp lạ lùng em trao.."
Hắn xin sửa lại cho đúng là
"....Giết ta nào phải kiếm
cung
Vì con mắt đẹp lạ lùng em trao.."
Kể ra cũng còn thiếu hai câu đầu là
Chôn ta nào phải mộ phần
Mà trong ánh mắt xanh ngần dáng thu
Giam anh nào phải ngục tù
Mà vì em để mịt mù gió bay
Bắt ta nào phải trùng vây
Mà vì em để hao gầy thi dung
Giết ta nào phải kiém cung
Vì con mắt đẹp lạ lùng em trao...
Ara
Viết tình ca phải có hứng, phải toát ra từ con tim, mà
phải là sống thực với mình thì bản tình ca đó sẽ để đời.
Những nhạc sĩ thới tiền chiến nổi danh được là vì họ quá lãng
mạn, khi yêu họ chỉ thuần túy một "tình yêu thánh hóa"(là câu chữ
trong quyển truyện của nhà văn Doãn quốc Sỹ), yêu để mơ mộng....
Nhà văn Song Thao cũng nói thêm về Phạm thiên Thư mà hắn cũng
"chịu" nhà thơ này; Con người Phạm Thiên Thư là con người luôn chọn
cái qui luật của dân gian thể hiện qua câu tục ngữ “thứ nhất là tu tại gia, thứ
hai tu chợ, thứ ba tu chùa”, vì thế không lấy làm lạ khi ông sống trong chùa
11 năm, mặc áo cà sa, soạn kinh sách cho nhà chùa mà vẫn sáng tác được những
thi ca trữ tình, những bài Ngày Xưa Hoàng Thị, Lên Non Tìm Động Hoa Vàng ra đời
trong dịp này cùng tập Đoạn Trường Vô Thanh. Đấy là lúc ông gặp nữ sĩ Tuệ
Mai(con gái của Á Nam Trần tuấn Khải) và được nữ sĩ ưu ái "hết ga".
Đến năm 1975 ông cởi áo cà sa sau 11 năm kinh sách, lấy vợ là
con gái nhà văn Hoàng Ly, cũng là một nhân vật nòi tình, sau đó ông cũng
"bỏ của chạy lấy người" lấy một nha sĩ mở quán café "Hoa
vàng" nơi cư xá Bắc Hải cũ. Nơi quán Hoa vàng hắn cũng có lần ghé chơi,
gặp mặt ông, nhớ đến bài thơ hắn có lần đọc trong "ca dao hồng"
Café Hoa vàng, điểm hẹn của các nghệ sĩ Saigon
Giam anh nào phải ngục tù
Mà vì em để mịt mù gió bay
Bắt ta nào phải trùng vây
Mà vì em để hao gầy thi dung
Bắt ta nào phải kiém cung
Vì con mắt đẹp lạ lùng em trao...
Hắn cũng chịu cái" hứng" của nhà văn Song Thao. Cám ơn
nhà văn nhiều.
Ara
Hứng
Song Thao
Tôi ở ngay Montreal mà cũng không biết là nhạc
sĩ Lê Trạch Lựu cùng ở chung thành phố với tôi. Cho tới khi đọc được bài viết
về ông trên báo Thanh Niên Online ở trong nước tôi mới biết ông là đồng…tỉnh
với tôi! Ông là tác giả của bản nhạc “Em Tôi” mà hầu như mọi người đều biết. Ấm
ớ về nhạc như tôi mà lúc nào cũng có thể nghêu ngao em tôi ưa đứng nhìn trời
xanh xanh / mang theo đôi mắt buồn vương giấc mơ được. Hứng từ nàng…nàng nào đã
khiến ông sáng tác được bản nhạc bất hủ này vào năm 1953? Ông kể với ký giả
H.Đ.N.: “Mùa hè năm 1946, hướng đạo sinh Hà Nội gồm nhiều “đạo” (phiên đội) cả
nam lẫn nữ tập trung ở ga Hàng Cỏ để đáp tàu đi dự trại hè tại biển Sầm Sơn
(Thanh Hóa). Tôi bỗng để ý thấy trong đoàn có một cô gái xinh xinh, dáng người
phong nhã và đặc biệt có đôi mắt tuyệt đẹp. Nếu bảo rằng có “tiếng sét ái tình”
thì quả thật tôi đã bị “đánh một quả” đến choáng váng. Đến nơi, đoàn tôi gặp
may là được ở trong những biệt thự nhìn ra bờ biển của khu nghỉ mát do người
Pháp vừa rút khỏi. Phía sau ngôi nhà bọn tôi ở có một giếng nước và không hiểu
vô tình hay cố ý mà trưa nào tôi cũng thấy cô gái ấy ra giếng giặt áo. Lúc nào
tôi cũng ngồi bên cửa sổ ngắm cô ấy. Thỉnh thoảng cô ấy ngước mắt nhìn về phía
tôi, mỉm cười khiến tôi xuyến xao quá đỗi... Trở về Hà Nội, gần như ngay lập
tức tôi đi tìm nhà cô ấy. Hóa ra chúng tôi ở khá gần nhau. Và ơn trời, tôi phát
giác ra: thằng Mỹ - đứa “đệ tử” vẫn đi theo tôi bấy lâu nay lại chính là em
ruột của nàng. Qua Mỹ, tôi biết nàng tên là Phượng. Từ đó, mỗi chiều, tôi
thường xuất hiện trước cổng nhà nàng với một lý do rất ư chính đáng: rủ chú Mỹ
đi chơi. Và như hiểu được tình cảm của tôi, những buổi chiều nàng cũng thường
ra hiên nhà hóng mát hoặc rũ tóc bên thềm. Tôi nảy ra ý định viết thư cho
Phượng, nhưng nghĩ đến tình huống nàng cầm bức thư và... xé tan tành, hoặc
quẳng xuống đất thì có mà... độn thổ! Cách đơn giản nhất là nhờ chú Mỹ làm
“giao liên”. Vậy là suốt 70 ngày, mỗi ngày một bức thư được Mỹ chuyển đến cô
chị, nhưng tuyệt nhiên chẳng có hồi âm. Tôi nghi Mỹ “giếm” những bức thư đi, nó
thề “bán sống, bán chết” đã chuyển rồi, còn tại sao không có thư trả lời thì
“anh đi mà hỏi chị Phượng”. Tôi đau khổ, hoang mang… Cho đến một chiều trước
ngày Toàn quốc kháng chiến một tuần, Mỹ háo hức tìm tôi với bức thư hồi âm đầu
tiên của nàng. Tôi run run mở bức thư có những con chữ tròn tròn, đều đều.
Trong thư Phượng nói là cũng đã “để ý” tôi từ hôm gặp đầu tiên. Sở dĩ nàng
không hồi âm là muốn thử xem tôi có phải là người đứng đắn không. Sau đó gia
đình nàng tản cư về Hà Đông. Hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà Nội đến thăm nàng.
Ngạc nhiên trước “nhiệt tình” của tôi, bố mẹ nàng đã cho phép tôi đi chơi suốt
một buổi dọc bờ sông Nhuệ (dưới sự giám sát của... Mỹ!). Đó là một lần bên nhau
duy nhất, một ngày hạnh phúc ngập tràn. Chỉ một điều khiến tôi ân hận đến mãi
bây giờ là đã không dám cầm tay Phượng, dù chỉ một lần”.
Cái tay ở gần kề mà không biết cầm khiến nhạc
sĩ Lê Trạch Lựu mất luôn…vợ! Bởi vì sau đó chiến tranh bùng nổ nên đôi người
đôi ngả. Ba năm sau, năm 1951, ông đi Pháp và từ ngày đó tới nay chưa hề trở về
Việt Nam. Tình vào cuối thập niên 1949 chay tịnh như vậy. Có cái tay mà cũng
không dám rớ tới. Qua thập niên 1950, tình hình mặt trận yêu đương đã sáng sủa
hơn nhiều. Nhà thơ Trần Dạ Từ, khi yêu, đã biết mi người tình, tuy cái mi còn
như…hết hồn. Lần đầu ta ghé môi hôn / Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang. Từ
thập niên 1960, tình yêu đã luồn lọt đến mọi khe hở. Nếu nhạc sĩ Lê Trạch Lựu
yêu trong thập niên này thì tình hình chắc đã khác. Nhưng nếu “em tôi” trở
thành “madame Lê Trạch Lựu” thì thiệt hại vô số, giới thưởng thức nhạc chắc sẽ
chẳng có “Em Tôi”. Tình dang dở mới là nguồn hứng để các văn thi nhạc sĩ sáng
tác. Nếu vẹn câu thề rồi thì chỉ lo sản xuất các công dân cho tổ quốc, thơ thẩn
nhạc nhiếc gì nữa.
https://www.youtube.com/watch?v=lxi9JCycs4o
Chuyện tình của các ông thi sĩ nhạc sĩ ngày
xưa cứ lửng lơ con cá vàng như vậy cả. Có hai chàng nhạc sĩ xứ Quảng là Vũ Đức
Sao Biển và Đynh Trầm Ca, cùng thầm yêu một cô gái tên Hồ Thị Thu. Khoảng thập
niên 60, Thu khoảng mười tám đôi mươi, nữ sinh trường Trung học Tiểu La, Thăng
Bình, Quảng Nam. Nàng có mái tóc dài, khuôn mặt trái soan, làn da trắng hồng.
Hai chàng nhạc sĩ lúc đó đều là học trò chân đất, bạn thân với nhau. Có lẽ họ
cùng ấp úng như nhau. Nàng Thu đi lấy chồng sớm. Chồng của nàng là trai thời
loạn, một Trung Úy Pháo binh tên Trần Đình Ái. Kể về cuộc tình này, anh Hồ
Luân, anh rể của cô Thu và là bạn của cả Vũ Đức Sao Biển lẫn Đynh Trầm Ca cười
hô hố: “Thằng Mạc Phụ (tên thật của Đynh Trầm Ca) quen con Thu là qua tui. Dạo
đó tui để ý cô chị tên Liên. Liên bị bệnh, tui muốn đến thăm nhưng đi một mình
thì hơi run, bèn rủ thằng Phụ đi theo. Ai dè, tới nhà Liên, hắn gặp cô em, đâm
ra như mất hồn! Còn con Thu có tình cảm chi với Võ Hợi (tên thật của Vũ Đức Sao
Biển) không thì tui không rõ. Nhưng mà tui thấy nhiều khi người ta hư cấu
mà…hay quá trời, đến nỗi mình là người trong cuộc mà còn ngẩn tò te nữa đó!”.
Người trong cuộc chính cống là nàng Thu. Hỏi
thì nàng kể rất vui: “Dạo đó tôi với anh Đynh Trầm Ca cũng có tình cảm nhưng
chỉ là tình cảm tuổi mới lớn. Hồi quen anh ấy tôi mới học lớp Đệ Lục trường
Trung Học Tiểu La, nhưng rồi không duyên nợ. Tôi lấy chồng năm 1966, chồng tôi
người gốc Hà Nội”. Tới đây thì tôi muốn dấu một nụ cười. Không dấu thì tên Hà
Nội là tôi chắc sẽ khốn với các ông bạn gốc Quảng như các ông Luân Hoán, Phan
Xuân Sinh, Lưu Nguyễn tài hoa rất mực. Dù sao, mối tình ấm ớ của hai chàng nhạc
sĩ Quảng với một người đẹp cũng cho giới thưởng ngoạn lời được hai bản nhạc rất
nổi tiếng: “Thu, Hát Cho Người” của Vũ Đức Sao Biển và “Ru Con Tình Cũ” của
Đynh Trầm Ca. Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt / Mùa thu nào cho người
về thăm bến xưa / Hoàng Hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ / Về đồi sim ta nhớ người
vô bờ. Đó là tâm sự của ông Vũ Đức Sao Biển. Còn ông Đynh Trầm Ca thở than: Ba
năm qua em trở thành thiếu phụ / Ngồi ru con như ru tình buồn / Xin một đời
thôi tiếc thương nhau / Xin một đời ngủ yên dĩ vãng.
https://www.youtube.com/watch?v=GQ65UPJrjuY
https://www.youtube.com/watch?v=I19qej2bZQA
Nhà thơ Phạm Thiên Thư, nửa đời nửa tu, nhưng
cửa Phật rộng mở cho những bóng hồng bước vào. Dù chỉ là những chiếc bóng
thoáng qua trước cửa chứ chưa vào tâm hồn ông. Bài thơ “Vết Chim Bay” ông làm
năm 24 tuổi được gợi hứng từ một cô nữ sinh thường vào sân chùa để học bài.
Nàng đẹp thánh thiện như ánh sáng của Quan Thế Âm Bồ Tát. Nhà tu họ Phạm tới
làm quen. Mới được một tuần, tình chưa bén, bóng nàng đã khuất. Nhà tu si tình
ngồi ở sân chùa đợi mong bóng dáng nho nhỏ của người đẹp trở lại. Nhưng bóng
chim tăm cá khuất nẻo. Nàng chẳng bao giờ về lại chốn cũ. Mười năm sau, khi trở
lại chùa xưa, leo lên gác chuông, nét phấn trắng ghi tên hai người vẫn chưa
phai, lòng bâng khuâng chuyện cũ, chàng đề thơ.
Ngày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ.
Con chim nào qua đó
Còn để dấu chân in…
Anh một mình gọi nhỏ
Chim ơi biết đâu tìm.
Nhưng nàng thơ nổi tiếng nhất của nhà thi sĩ
cửa chùa này là Hoàng Thị Ngọ trong bài thơ “Ngày Xưa Hoàng Thị Ngọ”. Tình yêu
kiểu nhà tu là tình yêu chỉ phớt qua da. Phớt qua mà cũng…hứng ra gì. Chẳng gì
cái tên Ngọ rất tầm thường đã được nâng lên thành thơ, rất thơ. Đó là cô bạn
cùng lớp lại là hàng xóm của nhà thơ, người gốc Hải Dương. Hai lần gần gũi như
vậy tưởng mối tình dễ bộc lộ. Nhưng không, Phạm Thiên Thư còn tệ hơn Lê Trạch
Lựu. Yêu ở trong lòng nhưng mồm miệng bị đóng khằn không mở ra được. Yêu trong
thập kỷ 1970 mà cái miệng còn vướng víu như vậy thì chán thật. Hàng ngày, khi
xếp hàng vào lớp, nàng đứng ở đầu hàng bên nữ, nổi bật với mái tóc dài xõa trên
bờ vai mỏng. Chàng thi sĩ của chúng ta chỉ biết nhìn trộm. Khi tan trường,
Hoàng Thị Ngọ một mình lẽo đẽo trên đường, nhà thơ lại chỉ lẽo đẽo theo sau. Tệ!
Vậy mà còn kể: “Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi theo nhưng không dám lên tiếng.
Trong bóng chiều tà, ánh nắng hắt qua hàng cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi
những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Cứ thế, tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo sau cô
ấy hàng ngày, giấu kín những cảm xúc của mình không cho bất cứ ai biết”. Tôi
chán ông này quá. Nhưng cứ tình câm như vậy văn học lại có được một bài thơ
hay.
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Con chim giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
Cứ theo suông như vậy thì em có đi lấy chồng
là chuyện dĩ nhiên. Em đi theo người, anh ôm mối tình si. Tình nở thành thơ. Thơ
cũng như rượu, để lâu mới ngấm. Mười năm sau (lại mười năm, ông nhà thơ này coi
bộ khoái con số mười của thời gian!), trở lại đường xưa, thơ mới da diết.
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng dáng đỏ
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu
Chân theo tìm nhau
Còn là vang vọng
Đời như biển động
Xóa dấu ngày qua
Được Phạm Duy phổ nhạc, Hoàng Thị Ngọ trở nên
quen thuộc với cả nước. Theo nhà thơ thì nhan đề của bài thơ khác bản nhạc.
Không phải “Ngày Xưa Hoàng Thị” mà là “Ngày Xưa Hoàng Thị Ngọ”. Không hiểu sao
khi phổ nhạc, nhạc sĩ Phạm Duy lại cắt bớt đi như vậy. Phải công nhận là cái
tên Hoàng Thị Ngọ bay cao đến như vậy là nhờ nhạc sĩ Phạm Duy. Có thể nói là
Phạm Thiên Thư tạo ra Hoàng Thị Ngọ nhưng Phạm Duy tô son trát phấn cho nàng.
Chỉ một bóng hồng nhưng gợi ra được hai cái hứng cho hai nghệ sĩ, bên thơ bên nhạc.
https://www.youtube.com/watch?v=vG4qBpCXPdQ
Phạm Thiên Thư ỡm ờ trong tình yêu. Phạm Duy
chắt hết tình yêu. Ông chắt hơi kỹ với vụ mà báo chí thời cuối thập niên 1950
gọi là vụ “ăn chè Nhà Bè”. Chuyện không tốt đẹp đã trở thành chuyện thương tâm
cho nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Ngày nay hai nạn nhân của vụ ăn chè này, hai chị
em Phạm Thái Hằng và Phạm Đình Chương, đã ra người thiên cổ. Hầu như chúng ta
đều biết chuyện lùm xùm này nên chẳng cần nhắc lại, chỉ xin trích một câu trong
cuốn Hồi Ký III của Phạm Duy:”Dù chưa đến độ lúc nào cũng đấm ngực thùm thụp để
nhận cái tội gốc của những người mang số kiếp nòi tình, tôi luôn luôn buồn rầu
khi phải nhắc lại mối tình cấm (amour défendu) mà tôi cả gan đi vào khi tôi mới
ngoài 30 tuổi. Tôi chỉ buồn vì đã làm buồn lòng người vợ, người em. Buồn vì
biết rằng những đổ vỡ này sẽ không bao giờ có thể hàn gắn được”.
Hậu quả của vụ này là cuộc ly dị giữa Khánh
Ngọc và Phạm Đình Chương. Một bài báo của Sông Lô trên trang mạng DCVOnline mới
đây đã ghi lại: “Nghe nói, sau khi ly dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phải chịu
cảnh gà trống nuôi con, ông cố gắng hát và sáng tác trở lại. Một đêm trên một
sân khấu đại nhạc hội, ông gặp lại người cũ của mình và ông đã bị từ chối khi
ngỏ ý muốn đưa nàng về nhà vì trời đang mưa. Quá đắng cay, ông lặng lẽ về căn
nhà với chập chùng kỷ niệm, nhìn mưa rơi mà lòng tan nát, tủi thương cho thân
phận, ý định tìm chết bỗng chớm trong ông, nhưng tiếng khóc của trẻ thơ đã làm
ông bừng tỉnh mà níu ông lại! Nhạc phẩm “Nửa Hồn Thương Đau” theo ý thơ Thanh
Tâm Tuyền được ông sáng tác cũng vào cái đêm mưa hôm đó”.
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu? Em ở đâu? Có chăng mưa sầu buồn đen
mắt sâu
Tâm sự của Phạm Đình Chương nhưng thơ của
Thanh Tâm Tuyền. Hai người là bạn thân. Họ có cùng chung một hứng cảm chăng?
Nghệ sĩ là những người có con tim mẫn cảm. Họ sống được trong tim nhau. Và họ
trải được lòng mình cho những người thưởng ngoạn.
https://www.youtube.com/watch?v=FBbAIoeMbzo
Phạm Đình Chương cùng quê Sơn Tây với nhà thơ
Quang Dũng. Có lẽ cùng sinh trưởng nơi miền Bất Bạt nên họ đi vào lòng nhau.
Mối tình của Quang Dũng với nàng thơ Akimi Nhật được ông cho vào bài thơ “Mắt
Người Sơn Tây” được Phạm Đình Chương hứng thú thắp cao bằng nhạc. Chắc con tim
của người Sơn Tây có chung nhịp đập! Nàng thơ tên Nhật, còn gọi là Akimi, là
một thiếu nữ nhan sắc mà Quang Dũng ca ngợi bằng bốn câu thơ.
Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền
Khuấy nước kênh đào sóng nổi lên
Ý nhị mẹ cười sau nếp áo
Non sông cùng đắm giấc mơ tiên
Bốn câu gợi hứng từ vẻ đẹp thần kỳ của cô hàng
nước ngỡ là con dân xứ Phù Tang này đã được Quang Dũng tự tay dán lên vách
quán. Lúc đó Quang Dũng là Đại Đội Trưởng Trung Đoàn Tây Tiến đóng ở Hòa Bình.
Mỗi lần nghỉ phép về thăm gia đình ở Phùng, nhà thơ thường tạt qua chợ Đại thăm
người tình cũ tại quán cà phê của nàng. Cảm hứng từ cô gái có cái tên Nhật
Akimi đã cho chúng ta hai bài thơ “Mắt Người Sơn Tây” và “Đôi Bờ” bất hủ. Tôi
nhớ xứ Đoài mây trắng lắm / Em đã bao ngày em nhớ thương. Khi phổ nhạc, Phạm
Đình Chương đã ghép hai bài thành một “Đôi Mắt Người Sơn Tây”.
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mưa
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
https://www.youtube.com/watch?v=1IHZfoXt0hM
Nói về hứng khởi của người viết là nói chuyện vô
cùng. Có thể đó là một bóng dáng chưa dám cầm tay của Lê Trạch Lựu, có thể là
hai mối tình một chiều ấm ớ của Vũ Đức Sao Biển và Đynh Trầm Ca, có thể là mối
tình câm của Phạm Thiên Thư, cũng có thể đó là nỗi đau một đời của Phạm Đình
Chương hay có thể là mối tình chia ly của Quang Dũng. Hứng còn có thể là một
ánh mắt vu vơ, một bóng dáng nhạt nhòa, một cái vấp nhẹ của con tim hay một mối
tình vô vọng. Đối với người sáng tác, cuộc đời ở mỗi mảnh, mỗi chốn, mỗi giây
phút đều là những phút thần diệu của hứng khởi. Đúng lúc đụng vào con tim
là…tóe ra thơ ra nhạc ra tranh ra văn.
Đêm qua, nghe văng vẳng mấy câu nhạc của những
người Sơn Tây, tôi, một người Sơn Tây bất đắc dĩ, bỗng nổi hứng viết bài này.
Phải nói cho rõ tại sao tôi lại là người Sơn Tây…dỏm. Nguyên ông bà cụ thân
sinh ra tôi là người Hà Nội. Nhà cửa, gia đình nội ngoại đều ở Hà Nội. Ông cụ
tôi bị đổi lên làm việc ở Sơn Tây và bà cụ sanh tôi tại đây. Sanh tại Sơn Tây
nhưng ông bà lại về nơi chôn nhau cắt rốn khai sanh cho tôi ở Hà Nội, đâu chừng
mấy tháng sau đó. Việc di dời nơi sanh đã khiến tôi bị thiệt thòi: chẳng biết
ngày tháng sanh chính xác để nhờ ông Võ Kỳ Điền bấm cho lá số tử vi! Nhưng
chẳng cần tử vi tôi cũng biết số tôi là số con…dã tràng. Cứ miệt mài những
chuyện không đâu! Thôi thì lại miệt mài vậy.
Chuyện hứng tới đây có thể chấm dứt được nhưng
tôi lại muốn thòng thêm tí đuôi. Người Sơn Tây Quang Dũng, khi…đôi bờ với nàng
thơ Akimi, ông đã hỏi: Em đi áo mỏng buông hờn tủi / Dòng lệ thơ ngây có dạt
dào? Akimi đã đi rất xa. Năm 1954, nàng di cư vào Sài Gòn, một thời là kiều nữ
của nhà hàng Tự Do. Năm 1975, theo vận nước, nàng di tản qua Mỹ và hiện sống
tại đây.
Tí đuôi nữa mà tôi muốn thêm là chuyện tình
của người cùng ở thành phố Montreal với tôi, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu. Bài hát “Em
Tôi” được ông sáng tác tại Pháp vào năm 1953 trong một lúc nhớ về người yêu cũ
và gửi về cho nhà xuất bản Tinh Hoa ở Sài Gòn. Và bản nhạc trở thành một hiện
tượng. Qua bạn bè còn ở Việt Nam, ông liên lạc được với cậu Mỹ, em của người
đẹp Phượng. Nhạc sĩ họ Lê kể tiếp: “Cậu ấy thư cho tôi ‘chị Phượng đợi anh suốt
mấy năm mà anh vẫn bặt tin. Tưởng anh đã chết, chị để tang anh ba năm (nhiều
người đi hỏi, chị vẫn lắc đầu). Nhưng…hôm qua là ngày cưới của chị ấy, ba mẹ
thúc giục mà chị ấy đã 26 tuổi rồi’. Muốn cho nàng yên phận với chồng con, từ
đó tôi không còn liên lạc gì với quê nhà”. Cuối năm 2009, nhờ một người bạn cũ,
ông biết được số điện thoại của Phượng ở Hà Nội. Ông vội gọi về. Đầu dây bên
kia, từ Hà Nội, bà Phượng trả lời. Lê Trạch Lựu kể lại. “Tôi xưng tên, cô ấy cứ
nhắc đi nhắc lại ba lần: anh Lê Trạch Lựu hả? như không tin là có thật. Khi tôi
xác nhận là tôi, cô ấy òa ra khóc…Sau những ân cần hỏi han, Phượng kể: Anh ấy
đeo đẳng Phượng trong bốn năm trời. Phượng nói Phượng đã có người, anh ấy cứ
đeo đẳng. Phượng kể thật với anh ấy chuyện Phượng và anh, anh ấy chịu là trong
lòng Phượng có một người…Rồi tôi hỏi:”Phượng còn giữ những bức thư không?” Tôi
muốn tìm hiểu lúc 16 tuổi tôi viết văn ra sao, chắc lủng củng lắm! Phượng bảo:
“Em để vào một chiếc hộp chung với tập ảnh chụp hồi đó. Nó theo em đi tất cả
mọi nơi, nhưng chồng em thấy em lúc nào cũng buồn, nói với em nên giấu nó vào
một chỗ, lúc nào vui hãy mở ra. Thế là ông ấy bỏ vào đâu không rõ. Mấy năm sau
ông ấy mất, tìm cái hộp khắp nơi mà không ra! Em nhớ anh viết dài…dài lắm. Hôm
nọ muốn tìm cái hình anh ngày đó mà chẳng thấy. Tủi thân, em lại ngồi khóc, may
mà con cháu bữa đó không có ở nhà…”.
Thêm một tí đuôi nữa: hiện nhạc sĩ Lê Trạch
Lựu sống với vợ là bà Danica, một phụ nữ Pháp gốc Ba Lan. Họ vẫn còn hít thở
cùng một thứ không khí với tôi ở Montreal!
Song Thao
07/2011
No comments:
Post a Comment