Chuyện Thật Kể Về Tấm Thẻ Bài Của
Cô Bác Sĩ Vivian Le. (Đ.Văn)
Con gái 9 tuổi lạc qua
Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở thành bác sĩ về Việt Nam chửa bệnh từ
thiện, ra Nha Trang tìm lại cha mẹ các em, tình cờ xe hết xăng ngay chỗ mẹ ruột
và hai đứa em đang cải táng mộ cha là một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
cấp bậc Trung Sĩ tử thương vào ngày 30/04/1975, sau đó cô đã bảo lãnh cả mẹ và
các em qua định cư tại Hoa Kỳ.
Câu chuyện được bắt
đầu vào sáng ngày 23-3-1975. Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo
kích của Việt Cộng đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại bãi
biển Chu Lai tại Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa
con gái của mình…chị đã được một người chạy nạn cho biết:“Con bé khoảng 9 hay
10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị
sao? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô
ra tàu lớn rồi."
Thật là
may mắn cho nó!”…Lệ, đứa con gái thất lạc
của chị Buôn được đưa lên tàu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo tòng teng nơi
ngực. Người ta thấy có khắc tên: Lê văn Buôn Số quân: …. Họ hỏi Lệ. Lệ
nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi
biển Chu Lai. Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc
không ích gì. Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo.
Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả. Kể từ lúc quả lựu đạn nổ,
nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu.
Người vớt nó lên ca-nô và
đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân. Sau thời gian huấn
luyện dài đằng đẳng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả
nhân loại. Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc
biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm
nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.
minh hoạ
Anh tên Lê trọng
Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ Dầu Một, ra trường với hạng cao trong
số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một
sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung. Chiếc tàu Nghĩa và đứa con
nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc
Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại
nhà vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân
Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho
Lệ. Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:
“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn
vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”
Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:
“Chị đừng nghĩ vậy. Ba má nó và ba đứa em còn
kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con
nuôi.”
Xuân Hà tính đùa thêm một
câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa. Ngày
28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tàu Hải Quân HQ lớn để chạy sang
Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một
nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời
ông bà đi.
Sau 5 tháng ở trong trại
tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South
Carolina. Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư
cơ khí. Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy
tiền chi phí ăn ở cho hai cha con.
minh hoạ
Nghĩa xin cho Lệ vào học ở
trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng,
ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.Nghĩa chỉ thêm bài vở cho
Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong.
Lệ thông minh nên học rất
nhanh. Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm
những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.
Mặc dầu vào ngang thiếu căn
bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học
lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết
chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học
lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học
sinh bản xứ.Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa
khuyên, Lệ phải cố quên. Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và
các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học. Đã từng ở trong cảnh nghèo
của cha mẹ ở Việt Nam,
Lệ biết được đi học thế này
là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức. Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ,
sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách
hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ.
Lệ nghe thế lại tạm yên
lòng và hy vọng. Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina. Sau
3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ
chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ
Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời
dạy môn Nhãn Khoa cho sinh viên cùng trường.
Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau
đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam. Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba
Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua
vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em.
Sau hơn 10 năm bế quan toả
cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho
kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại. Lệ và một người bạn thân về
đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ
thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung. Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều. Có
những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi
biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức
uống cho du khách.
Trại Gia binh ngày nào
không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như
vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé để hỏi thăm về cha mẹ và các
em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.
Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ
như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con
cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm
xem có ai biết ba má và các em Lệ không? Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn
đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để
mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.
Một nữ bác sĩ Hoa
Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường
một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng
bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng
ngừa bệnh tật. Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông
già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư
đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết.
Mỗi buổi chiều khi khám
bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng
hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn
ra xa.Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi
Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không?
Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác
ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho
Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha
Trang. Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một
tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con. Lệ
thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh. Nếu tại Trà Vinh
cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau
ngày 23-3-1975.
Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc. Ba má và các em đi hết
chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ
ấy suốt đời! Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi
chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người. Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi
đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một
chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của
Nha Trang. Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ” nhưng để chìu Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp
hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang
trọng mướn phòng ngủ qua đêm. Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu
là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm
và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi
Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y
Tế Hoa Kỳ. Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh
tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.
Sau khi đã dạo chơi bãi
biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau,
nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang.Phong cảnh quá tiêu sơ và u
buồn, không có bóng một đứa trẻ. Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con
đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.
Mới đi thêm một khoảng
ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy. Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm
soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước. Anh ta hoảng hồn tắt máy và
ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy. Đó đây, ngoài con lộ đắp
bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy
vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ. Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc
cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.
Chợt Lệ trông thấy một đám
người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét. Lệ chợt nghĩ hay là họ
đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không
nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài. Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem
sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến
một, vài chục đô-la của Lệ.
Lệ nói cho Ruthie nghe ý
nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên
cùng đi với Lệ. Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng
khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm
trên tay để đi. Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ
cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm
xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp
thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài. Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp
mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi.
Khi hai cô tới gần, tất cả
đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ. Họ quá lạ lùng bởi từ
xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho
rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để
coi cải mả.Phải, họ đang cải mả. Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang
một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống.
minh hoạ
Lệ mở lời khi nhìn một
người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:
“Chào các bác, các chú, các anh, các chị. Cháu
là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương. Các bác, các chú đang cải táng
cho thân nhân, phải không ạ?”
Nghe cô con gái nói tiếng
Việt, cả đám người thật ngạc nhiên. Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc
đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá. Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung
quanh hai cô gái. Người đàn bà lớn tuổi trả lời:
“Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết
từ năm 1975.”
Lệ nghe giọng nói người đàn
bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng. Nhân tiện, cứ hỏi
thăm xem có ai biết được ba mình không? Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra
cho họ coi, nói:
“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết
gia đình ông còn sống không và nay ở đâu. Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”
minh hoạ
Người đàn bà trân trối nhìn
Lệ xong ngập ngừng nói: “Thế này thực không phải. Xin lỗi…Có phải tấm
thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”
Điều Lệ nghi ngờ đã
đúng. Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ,
không còn sai vào đâu được. Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:
“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây. Má còn nhận ra
con không?”
Bà Buôn, phải, vì người đàn
bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn. Bà rên
rỉ:“
Lệ ơi, má đâu có
ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia
chính là ba con đó. Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng. Còn lại hai
đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”
Lệ quay ra ôm hôn đứa em
gái và thằng em trai. Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ
vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ. Bà Buôn hỏi Lệ:
“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm
ba má và các em phải không?”
“Dạ, đúng thế má. Con đi tìm ba má và các em vì
con đâu biết ba đã hy sinh ngày hôm đó.”
Ruthie đứng ngó mấy
mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân
hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn. Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức
mong mỏi, cô lẩm bẩm. Bốn thanh niên lại tiếp tục đào. Họ cậy tấm nắp thiên. Bộ
xương người đen sì lõng bõng nước. Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra
xa. Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã
rữa mục này.
Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy
bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ
hình hài của người cha đã sinh ra mình. Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây. Lệ
thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm
nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…
Bà Buôn thắp lên mấy cây
nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu
sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái
tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch. Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm
thợ hồ có nhiều kinh nghiệm. Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm.
Chú nói:
minh hoạ
“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà
năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh
thiêng như Trung sĩ Buôn đây. Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má
cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun
dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường
này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái
gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo. Vì
thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”
Bác tài xế đã lặn lội đi
xin được một bình nước đổ vào xe. Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu
sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi
cư ngụ của gia đình bà Buôn. Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt
lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền
bạc dư dã, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc. Bà chạnh lòng
nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành
công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời. Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm
xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên
đào rất nhanh.
minh hoạ
Lần này nó không nằm trên
gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang
đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang. Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà
Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa. Lệ cố hết
sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt
lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa
23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên
cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.
Nỗi buồn năm xưa dù chưa
quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại
trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai
tươi sáng hơn. Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa
cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những
người cải táng hôm đó.
Ai cũng tấm tắc khen sao
lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em
và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc
mơ.
Nhờ có nghề nghiệp cao và
lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi
đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ. Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối
cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ
là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người
Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hy sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu
vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!
Đây là câu chuyện thật mà người viết đã
lấy từ bài viết "Tấm Thẻ Bài" của Bút Xuân Trần Đình Ngọc đăng
trong website: http://www.tinvasong.com/?arti cleId=373001,
người viết có cắt xén để bài viết được gọn lại.
Nguồn: Internet - Nguyệt Vân Sưu tầm
No comments:
Post a Comment