Một thời khó quên.
4 tháng 4, 2022
Hình ảnh quen thuộc với những
người từng sống ở Sài Gòn thập niên 1980 (Getty Images)
Tôi là người phụ nữ nuôi con một mình ở
cái thời mà kinh tế đất nước đang đi xuống một cách kinh hoàng sau 1975. Thời
bao cấp, mọi thứ đều theo chế độ tem phiếu, buôn bán tự do dĩ nhiên không được
chấp nhận. Mọi mua bán bên ngoài các cửa hàng kinh doanh tổng hợp đều bị coi là
trái phép, là “buôn lậu”… Sanh con thiếu tình cha, tôi phải tự lăn lóc với đủ
thứ nghề để nuôi con. Vốn liếng chẳng có, cơ hội cũng không, ai bày vẽ chuyện
gì tôi làm chuyện ấy. Thành công ít, thất bại nhiều, nợ nần chồng chất, bệnh hoạn
triền miên…
Tuy nhiên, chính những năm tháng đầy khổ
ải ấy, tôi đã học được thật nhiều đáng quý. Đó là những bài học về nghĩa tình.
Đó là những kinh nghiệm sống không có trong sách vở học đường. Đó là những vốn
liếng tôi mang theo suốt đời với bao trân quí. Có người bạn thân cứ trách nhẹ:
Tại sao phải hồi tưởng đến những ngày khổ đau xa xưa ấy làm gì, cuộc đời ngắn
ngủi, hãy vui với những gì mình đang có…
Tôi quan niệm rằng quá khứ dẫu vui hay
buồn cũng là những bậc thang đưa ta đến hiện tại. Nghĩ về hay nhắc lại quá khứ
là để cám ơn những buồn vui mặn nồng của đời sống từng trải qua. Khổ đau và hạnh
phúc như là những cung bậc thăng trầm trong một bản nhạc. Nhớ lại đoạn đường đời
gian nan của mình thuở đó, tôi không biết nên bắt đầu từ đâu…
Khi con gái nhỏ mới tròn bốn tháng, tình
duyên gãy đôi, tôi ôm con về nhà mẹ nương náu. Thật ra đó không phải là nhà mà
chỉ là căn phòng nhỏ, chung vách với người hàng xóm. Nhà cầm quyền chỉ định chủ
nhà phải thu dọn, nhường một phòng bên gian trái cho gia đình tôi cư ngụ sau
khi căn nhà lớn của ba má tôi bị tịch thu. Chín mẹ con và đứa cháu ngoại, là
con gái của tôi, tổng cộng mười người, tá túc trong căn phòng nhỏ, không có nhà
vệ sinh riêng…
Trong cái ổ chuột tối tăm ấy, giường ngủ
hai mẹ con tôi ở ngay lối đi xuống căn bếp dột nát. Khi ngủ vẫn nghe mùi hôi từ
phòng tắm, cầu tiêu, cống rãnh. Sáng mở mắt ra là thấy cái gạc măng rê cũ rách
bươm trước mắt vì chỗ ngủ của hai mẹ con ở ngay nhà bếp. Mùa mưa phải dùng
nylon che tứ tung. Tôi còn nhớ cảm giác hạt mưa bắn vào mặt những khuya có cơn
mưa lớn. Chăn màn ẩm mốc. Khi trở mình, chiếc giường tre kêu kẽo kẹt. Những đêm
lạnh, hai mẹ con ôm nhau, đứa con rúc vào lòng…
… Ầu ơ, ví dầu cầu ván long đinh; cầu
tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi, con đi trường học,
mẹ đi trường đời…
Sài Gòn, khoảng năm 1990 (ảnh:
Didier NOIROT/Gamma-Rapho via Getty Images)
Trường đời của tôi từ khi có con bắt đầu
với nghề giặt ủi. Mối lái nhận được từ Cúc, cô em dâu buôn bán áo quần cũ ngoài
chợ trời. Việc của tôi là giặt ủi và tân trang mớ áo quần cũ trước khi bày bán.
Việc này khiến tôi có cảm giác như mình đang tiếp tay với thành phần bất lương
vì hàng tôi nhận đa số là đồ ăn cắp, rất hiếm là đồ mua lại từ những người túng
thiếu.
Mỗi sáng, chừng bốn năm giờ, khi con gái
còn ngủ say, tôi nhè nhẹ thức dậy, rón rén ém mùng chặn gối, sợ con giật mình.
Tôi lẹ làng xách thùng đi hứng nước. Từ nửa khuya đến sáng thì mới có nước máy
ri rỉ, ban ngày hầu như chỉ dùng nước giếng, thứ nước giếng vàng khè vì rễ cây
và phèn. Hai cánh tay tôi rã rời vì múc nước bằng cái gàu với sợi dây nylon đứt
không còn chỗ nối. Cái gàu lủng vá đi vá lại bằng dầu hắc nên khi gàu đầy nước
thì trọng lượng nặng gấp đôi. Mà phải kéo thật nhanh; nếu không, khi đến miệng
giếng, gàu nước chỉ còn một nửa.
Áo quần nhận về ngâm đêm hôm trước bằng
xà phòng nước. Thuở đó xà phòng bột rất hiếm, “nhân dân lao động” được phân phối
xà phòng nước, nấu từ cây thầu dầu, khi giặt đồ không ra bọt mà chỉ nhơn nhớt
và có mùi nồng sặc. Giặt đồ xong, khi phơi còn phải ngồi canh chừng ăn trộm. Những
năm sau 1975, tôi từng thấy người thành phố mặc áo quần may từ bao cát (loại
bao cát làm công sự và hầm thời chiến tranh). Do đó, trộm cắp quần áo phơi là chuyện
xảy ra thường ngày.
Đến khi ủi đồ mới thật khổ vì điện đóm.
Để tiết kiệm nhiên liệu, mỗi tuần người ta cúp điện mấy đêm. Đêm nào có điện
thì nhấp nha nhấp nháy. Nhà ai cũng dùng đèn bóng vàng vì rẻ tiền hơn đèn neon.
Buổi tối, cắm bàn ủi vào là coi như cả xóm tắt tối thui vì bị “hút điện”. Bà
con chưởi bới om sòm vì ăn cơm trong bóng đêm. Tôi phải đợi đến nửa khuya mới
soạn bàn ra ủi. Xếp đặt đâu vào đó thì trời cũng vừa sáng để mang hàng đi giao,
kịp cho người ta bán buổi chợ sớm. Thù lao ít lắm mà công việc thì quá nặng. Mới
sanh con được vài tháng, ngày nào cũng phải xách nước nên gân xanh nổi u nổi cục
trên hai tay tôi. Thiếu ăn, thiếu ngủ, tôi xanh mét như một tàu lá héo.
Nghề giặt ủi vất vả thế mà chỉ kiếm được
ngày hai bữa cơm vào mùa Hè. Đến mùa Đông thì càng thê thảm vì áo quần phơi
không khô, nhà thì chật chội. Tôi vừa trông con dại vừa tập đan len để kiếm
thêm. Tôi phải nhờ má tôi giúp mới hoàn thành được một chiếc áo. Không may là
ngay lúc ấy lại bùng lên phong trào đan len máy. Nghề đan len chỉ nuôi tôi lây
lất qua một mùa Đông…
Chợ trời Sài Gòn 1990 (ảnh:
Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images)
Với tôi, Tết không có nghĩa có mùa Xuân.
Ước mơ luôn là một bữa cơm no và một bộ áo lành lặn cho bé con mình. Ngày nọ,
có đứa bạn thương tình bày tôi bán giải khát “sinh tố giằm”, tức là trái cây
chín, dùng muỗng giằm nát, cho thêm vào chút sữa đặc. Người bạn tốt bụng còn
cho tôi tạm ứng tiền mua trái cây, đường, sữa, nước đá. Buổi tối bán xong thì
gom vốn trả bạn. Thuở đó làm gì có tủ lạnh nên mọi thứ phải cất trong thùng chứa
đá, tiền lời kiếm được mỗi ngày không đủ mua nước đá bảo quản trái cây qua đêm.
Có khi cả ngày tôi bán chỉ được một nửa trái bơ, chút đu đủ, vài quả chuối… Tôi
làm chủ quán được vài tháng, cuối cùng dẹp tiệm vì hết vốn và đổ nợ.
Bạn tôi không vì thế mà bỏ tôi. Bạn giúp
tôi một cách tế nhị bằng cách gởi con cho tôi trông giùm rồi biếu tôi chút tiền.
Sau đó một cô bạn thân khác cũng mang đứa con trai nhỏ đến gởi. Từ đó tôi làm
“dịch vụ giữ trẻ tại gia”. “Nhà trẻ” có ba cháu: con tôi và hai đứa con của hai
người bạn. Khi các cháu chơi vui thì không sao, lúc có đứa ho hen sổ mũi thì khổ
lắm. Nhất là cậu ấm con cô giáo. Nó yếu ớt và có tật khóc nhè dai dẳng. Đặc biệt
cậu chỉ thích ngậm vú thật mới chịu ngủ. Rốt cuộc, sau mấy tháng, các cháu ngày
càng suy dinh dưỡng. Hai đứa con trai của bạn tôi bụng to, da vàng. Tôi thì gầy
gò xanh mét…
Một lần, lại xảy ra “tai nạn nghề nghiệp”,
khi bạn tôi mang con đến, kèm theo một “cà mèn” cháo thịt cóc. Bạn tôi giải
thích là ông nội cháu ở quê nhờ người ta bắt cóc làm thịt rất kỹ càng, bỏ túi mật
rồi mới nấu. Nghe đâu là món gia truyền có vị thuốc chữa được chứng bụng ỏng,
da vàng, giúp xổ các chất độc. Trẻ con ăn vào còn có tác dụng diệt sán. Hai bà
mẹ trẻ là tôi và nhỏ bạn hí hửng. Hôm đó tôi cố ép con tôi và thằng bé kia ăn
càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, đứa con của bạn tôi bị ngộ độc phải đưa đi bệnh
viện cấp cứu! Hú hồn là cháu không mệnh hệ gì. Con gái tôi, có lẽ nhờ thể trạng
tốt, nên không hề hấn…
Sài Gòn 1995 (ảnh: Peter
Charlesworth/LightRocket via Getty Images)
Thời kỳ này nhà nước bắt đầu lỏng tay đối
với những người buôn bán tư nhân. Bạn tôi có một quầy sách báo và cho thuê truyện.
Cô ấy nhờ tôi giao sách báo kiếm thêm thu nhập. Dần dà bạn chia cho tôi một số
mối để tôi đi giao sách báo với nguồn hàng từ các nhà xuất bản quen biết. Thế
là tôi “gia nhập” làng báo chí và phát hành sách. Tuy nhiên, tôi chỉ có một
“phương tiện giao thông”: Đôi chân của mình.
Do đó, tôi không tranh đua nổi vì lúc
nào cũng chậm hơn người khác. Nghe tôi than thở và muốn mua một chiếc xe đạp,
người bạn của em trai tôi cho biết sẽ bán rẻ chiếc xe cũ của cậu ta. Tôi hối hả
đi mượn tiền. Hôm sau, cậu ấy đến, không phải với một chiếc xe đạp như tôi tưởng
mà là một cái thúng, chứa ngổn ngang đồ phụ tùng xe đạp cũ gồm dây sên, bàn đạp,
ổ bi… Trên vai hắn vác cái sườn xe trầy trụa, không biết sơn màu gì; tay còn lại
cầm hai cái bánh xe, ruột gan lòi ra ngoài, căm xe thì cái còn cái gãy.
Nhìn khuôn mặt thất vọng của tôi, cậu ta
cười: Không sao đâu chị, từ từ ráp lại, xe còn ngon lắm! Tôi ngậm ngùi trả
tiền và nhờ anh mình ráp xe. Thiếu thứ gì thì mua thêm thứ nấy. Rốt cuộc tôi
cũng “tậu” được chiếc xe làm phương tiện. Đó là chiếc “xe đạp” đúng nghĩa vì chỉ
có thể leo lên đạp. Nó không có yên sau, thậm chí không có “phanh” (thắng xe).
Mỗi sáng tôi đi giao sách báo và mỗi chiều đi thu tiền. Chiếc xe đạp lọc cọc cứ
xẹp bánh dọc đường, ruột xe chằng chịt, không còn chỗ vá. Đạp được một quãng là
phải nhảy xuống móc sên lại. Trong túi tôi lúc nào cũng có một cục đá để đóng
vào cái líp xe khi cần…
Ngày nọ tiếp nối ngày kia, vốn này chồng
lên vốn khác. Kết quả là… không còn đồng vốn nào. Nợ mang đầy đầu vì tiền lời mỗi
ngày không đủ tiêu, thâm vào vốn, mà là vốn vay mượn. Suốt đời, tôi không bao
giờ quên một chiều cuối năm, khi hạn chót cần phải trả các món nợ, mà tôi không
thể kiếm đâu ra. Tôi đạp chiếc xe cọc cạch lang thang vô định, chiều tối vẫn
không dám về nhà, cũng không biết đi đâu. Tôi muốn chết cho xong.
Với chiếc xe lọc cọc, lần nào đi chào
hàng tôi cũng thua người ta. Tôi tiết kiệm từng đồng; thậm chí không dám uống
nước và ngày nào cũng nhịn ăn. Chỉ nuôi một đứa con nhỏ mà tôi không lo được.
Thế thì sống làm gì… Sau những ngày bôn ba, tôi còn bị suy thận. Hai ba lần nhập
viện, tôi trối trăn nhờ đứa em gái nuôi giùm đứa con dại của mình… Tuy nhiên,
khi tôi hoàn toàn bế tắc, ông anh trai biết chuyện thương tình cho một chỉ vàng
để thanh toán hết số nợ sách báo cho đứa bạn thân. Tôi còn nhớ, lúc tôi đến gặp
nó để trả nợ, nó tròn mắt ngạc nhiên: Ngày cuối năm chật vật, làm sao tôi
kiếm được tiền trả nợ vậy? Tôi không thể giải thích gì hơn ngoài những lời vụng
về cám ơn lòng tốt của bạn trong nước mắt. Hai đứa tôi cùng khóc…
***
Bây giờ, nghĩ lại, sau bao
nhiêu gian truân, tất cả những gì còn lại từ cuộc đời, đối với tôi, là sự thấm
thía của tình nghĩa trên suốt những chặng đường gập gềnh. Cho đến bây giờ, tôi
không bao giờ có thể quên những người thân cũng như bạn bè một thời gắn bó và
giang tay giúp đỡ khi tôi vò võ nuôi con và một thân một mình bôn ba giữa chợ đời
mênh mông. Lòng tôi mãi khắc ghi những thời khắc ấy với những con người ấy…
Atlanta, 4|2022
No comments:
Post a Comment