Mùa Xuân Nói Chuyện... Mê Gái !
VŨ VÔ KIỀM TOẢ NĂNG LƯU KHÁCH
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
(Nguyễn Giản Thanh)
TUỔI XUÂN TUỔI NGƯỜI
Người ta thường ví một đời người như bốn mùa xuân hạ thu đông. Vì vậy, mùa xuân
là mùa của tuổi trẻ, mùa của yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có
bao xa!
Đầu đề tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng
có lẽ nào lại không có chuyện mê trai, mê chồng. Có điều lạ, trong lịch sử cũng
như trong văn học, trong đời thường, đàn ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà,
con gái mê chồng, mê trai.
Vậy thì bây giờ, nói cái gì trước, về
phái nam hay phái nữ?
Nếu nói về đàn bà, trước hết xin nhắc đến
câu ca dao:
“Tay mang khăn gói sang
sông,
Mẹ kêu mặc mẹ theo chồng cứ
theo.”
Sự kiện nầy, không hẵn chỉ có một mình cô gái trong câu ca dao nói trên, mà hầu
như gần hết cô nào, bà nào cũng vậy. Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ
mẹ, có khi đi không quay mặt ngó lui nữa. Thế có phải là... mê trai?
Người con gái Việt Nam khá lãng mạn. Này
nhé: “Thương nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Ở
cái xã hội xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo cho...trai, huống chi đời bây giờ
thì sao?
Trong lịch sử nước ta (VN), người
đầu tiên mê trai là ai?
Là Công chúa Tiên Dung đấy.
Cô là con vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi
tới môt khúc sông, thấy cảnh đẹp và buồn tình lên bãi cát bên sông tắm chơi.
Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước sông trong mát, thế là
công chúa dội ào ào vào mình. Nước làm cát trôi đi, làm lộ ra anh chàng đánh cá
Chử Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy hoảng hồn, như công chúa
Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai gái gặp nhau đã khó, huống
chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và. Thế rồi Tiên Dung bảo đây
là duyên trời định, bèn chọn Chử Đồng Tử làm chồng, và dựng nhà ngay ở bờ sông ấy
mà sống với người mới.
Nhà vua gọi, Tiên Dung không chịu về.
Vua cho quân lính đến bắt, chuyện xảy ra lung tung cả lên, để rồi cuối cùng,
hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).
Trong lịch sử nước ta, đâu phải chỉ có một
mình công chúa Tiên Dung! Mỵ Châu nặng tội hơn nhiều. Cũng vì mê Trọng Thủy, Mỵ
Châu lén lấy nỏ thần đưa cho chồng xem. Anh chàng “tình báo nam nhân kế” bèn
thay cái lẫy nỏ thật móng thần kim qui bằng cái giả, khiến Thục Phán mất nước về
tay Triệu Đà.
Ngày nay, đôi khi chúng ta nghe câu thơ
của Bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” hay Nguyễn
Khuyến hỏi “Ấy hồn Thục Đế chết bao giờ?” không mấy ai nghĩ tới việc
Mỵ Nương vô tình giết cha, làm gia đình tan nát, làm nước mất về tay giặc bên
chồng hay sao?
Bao Tự có khác chi?
Châu U Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng
hỏa trên núi Cam Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có thủy chung với Châu U Vương đâu?
Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi sau khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp
đổ. Còn như “con Điêu Thuyền” (tiếng gọi của mấy bà ưa đọc truyện xưa) thì quá
lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt đưa tình với Lữ Bố, khiến cha con
giết nhau. Có người bênh vực, cho rằng Điêu Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái
nhiệm vụ được giao đấy!
“Quốc sắc Thiên hương”
(Sắc đẹp đàn bà con gái)
Văn chương không thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.
Quốc sắc triêu hàm tửu
Thiên hương dạ nhiễm y
Có nghĩa là “Sắc nước sáng say rượu. Hương trời tối ướt áo”.
Điển tích về người đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ
sa
Hương trời đắm nguyệt say
hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật
mình
Câu thứ nhứt thứ nhì là “Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba là “nguyệt thẹn, hoa nhường”.Câu
cuối có nghĩa là đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.
Nụ cười của Bao Tự hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực.
Thơ Vương Tăng Nhu vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có
nghĩa là “một nụ cười ngàn lạng vàng cũng mua”.
“Nhất tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành”.Cười một cái thì làm “nghiêng nước”.
Cười lần nữa thì “nghiêng thành”, người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước,
nghiêng thành”.
Sắc đẹp làm cho “nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi, có hay ho gì
đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ làm hư thiên hạ. Người xưa họ cũng biết
đấy chứ: “Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng nước nghiêng
thành vì bởi thói đa tình).
Biết thì biết vậy mà bỏ thì không bỏ được.Thành
ra, “Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy”(Từ xưa người con gái đẹp đều là mối tai họa).
Cái đẹp của người đàn bà, và cái giỏi của
người đàn ông gần nhau mà kết quả ngược nhau: Kinh thi có câu:
Triết phu thành thành, Triết phụ khuynh
thành.
Nghĩa là: Người đàn ông giỏi dựng nên một
thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì.
&
Hồi còn nhỏ, nhỏ lắm, nhà tôi ở cạnh bệnh
viện Quảng Trị, tôi từng thấy một anh thanh niên bị bệnh điên. Người ta bảo anh
ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì? Là sa vào đường tình ái, rồi thất tình nên
phát bệnh điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng khi lớn lên, đọc lịch sử, lịch sử
văn học, tôi thấy nhiều người, phần nhiều là đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh
điên nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành quách, đến nỗi mất nước mất nhà thì
không là điên hay sao, hay còn tệ hại hơn cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái có
đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá. Trong lịch sử, người ta còn “nặng”
hơn nhiều.
Số đàn ông mê gái thì đông hơn mà cũng khủng khiếp hơn. Người ta có thể điểm mặt từng người trong sách sử:
Vua Châu U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.
1)- Châu U Vương
“nước mất nhà tan” vì Bao Tự:
U Vương nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi
mất mạng, mất nước.Dĩ nhiên, Bao Tự là một giai nhân, tuy không được liệt vào
“tứ đại mỹ nhân” của Tàu.
Trong văn học Tàu có câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng giá
ngàn vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất
tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng thành)
thì cũng xứng với nụ cười Bao Tự.
Bao Tự ít khi cười, mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà Chu.Vì vậy,
ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự vui, Bao Tự cười.
Trong Tỳ Bà Hành có câu “Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong,
sàn sạt tiếng đao, Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa
vào bốn dây” là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc thứ nhất, Châu U vương
cho xé lụa từng cây làm cho Bao Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe như tiếng
đàn.
Thứ hai là khói báo tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói Cam Tuyền mờ
mịt thức mây” (Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt
thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên “Phong hỏa đài”.
Phong hỏa đài là một phương tiện thông
tin ngày xưa, để báo cho chư hầu biết kinh đô có giặc. Một hôm U Vương cho đốt
khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về cứu giá. Té ra đó chỉ là việc vua
nhà Châu gạt chư hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò chơi dại dột ấy làm cho chư hầu
tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt khói trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ
nghĩ rằng vua lại gạt, nên không đem quân về, để cho U Vương nhà Chu bị giặc giết
chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ Khuyển Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận,
xong một đời khuynh quốc khuynh thành.
2)- Hán Nguyên Đế giữ được giang
sơn nhà Hán,
nước Tàu được yên nhờ
có Chiêu Quân
Chiêu Quân còn gọi là Vương Tường, Vương
Chiêu Quân, một trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng
“chim sa” trong thành ngữ “chim sa cá lặn”, Tàu gọi là “trầm ngư lạc nhạn”.
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lững da trời nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển
tích nầy.
Sách cũ viết rằng khi Chiêu quân sang đất
Hồ (Hung Nô), ngang qua một sa mạc lớn, lòng buồn vì thân phận, vì xa quê, đang
ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân bèn gãy bản đàn tên “Xuất tái khúc”.
Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng trời đang bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột
gan đứt đoạn, sa xuống đất chết. Đó là điển tích “lạc nhạn”.
Hồ Hán Tà là vua xứ Hung Nô dọa đem quân
đánh phá nước Tàu, nếu vua Tàu không gả cho y một công chúa. Thay vì gả công
chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ, dĩ nhiên, cung nữ thì không ai
xấu bao giờ. Thấy vua Hán lấy 5 mà đổi 1, y bằng lòng.Một trong năm cung nữ, có
Vương Tường.
Tuy nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều
oan trái hơn.
Khi gọi Chiêu Quân lên để đưa sang xứ
Hung Nô, nhà vua thấy Vương Tường đẹp quá, muốn giữ lại, nhưng ngại triều thần,
đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
là hai câu thơ nói về tài đàn của Thúy
Kiều (truyện Thúy Kiều).
c)- Một thuyết khác cho rằng Chiêu
Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Chiêu quân đã góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung Nô (Hồ).
Phải nhờ đến sự hy sinh của một người
đàn bà để vua quan dân chúng Tàu được yên thân, có thể đó là điều không vinh dự
gì cho người Tàu và cho cả lịch sử Tàu.
Người Việt Nam khéo léo phê phán bằng một
bài thơ:
Vương Tường oán triều đình (1)
Vật chi muông cỏ dám lăng
loàn?
Âu hẳn trong triều ít kẻ
ngoan? (2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run
gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu? (4)
Bùn sũng nào hay đắp ải
quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc,
(5)
Tanh hôi chi để lụy hồng
nhan?
1)- Vương Chiêu Quân là cung nữ của
vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu Quân cho chúa Hung Nô để đổi lấy quan hệ
hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng cuối cùng vì buồn thương và uất hận nàng
đã tự vẫn.
2)- Câu thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các
quan trong triều
3)- Chỉ MaoDiên Thọ, tên thợ vẽ
gian tham.
5)- Thù khấu: Kẻ thù
5)- Vệ, Hoắc: Vệ Thanh, Hoắc
Khứ Bệnh, hai người đánh tan được quân Hung Nô (đời Hán).
Năm 1309, Huyền Trân Công chúa về Chiêm
quốc với Chế Mân. Triều thần có người không thuận.Trong dân chúng có bài thơ
nói về việc Chiêu quân cống Hồ để ám chỉ việc gả công chúa Huyền Trân.
Vua Hán dụ Vương Tường
gả cho chúa Thuyền Vu.
Hán Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường
Há trẫm riêng tây có phụ nường
Bắc quốc tuy rằng ngoài dị vực
Biên đình song cũng một biên
cương
Ở đây hạnh thắm nên
mai nhạt
Về đấy sen tàn lổi cỏ hương
Hơn thiệt tôi đừng ai oán nữa
Chờ ngày áo gấm lại hoàn
hương.
Việc ví von như thế nầy là khiên cưỡng.
Hành động của Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn hành động của Vuơng Tường nhiều!
Quang Dũng có bài thơ chê vua Hán như sau:
Tuyết lạnh che mờ trời Hán
Quốc
Tì bà lanh lảnh buốt cung
Thương
Tang tình năm ngón sầu dâng
lệ
Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ
xang
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán
Vương ơi!
Chiêu Quân che khép mền
chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh
rồi
Ngó lại xanh xanh triều Hán
Đế
Từng hàng châu lệ thấm chiên
nhung
Quân vương chắc cũng say và
khóc
Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn
ngùng
Hồ xang hồ xang xự hồ xang
Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng
hàng
Lã chã trời Phiên mưa tuyết
xuống
Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ
xang.
Tản Đà có bài văn tế
Nguyễn Thiện
Kế dịch ra Nôm
Cô ơi, cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc, thợ trời
cũng thua
Một đi, từ biệt cung vua
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn
năm!
3)- Trường Hận Ca:
Thiên tình hận giữa Đường Minh Hoàng
và Dương Quí Phi.
Khi xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ nàng làm Dương Quí Phi
(Diễm Trang - Vũ Hân)
Dương Quí Phi (719- 756, sau CN) là cung phi của vua Đường Minh Hoàng, một trong “tứ
đại mỹ nhân”, sắc đẹp khiến hoa héo vì hổ thẹn (tu hoa).
Dương Quý Phi tên thật là Dương
Nguyệt Nhi, lúc còn nhỏ tên Mai, sau gọi là Dương Ngọc Hoàn, quê
ở Tứ Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc Hoàn được tuyển vào cung làm vợ Thọ Vương Lý Mão,
con vua Đường Minh Hoàng. Lý Mão còn nhỏ lắm.
Khi ấy, Vũ Huệ phi rất được Đường Minh
Hoàng sủng ái, mới qua đời.Vua Đường thương nhớ vô cùng.
Cao Lực Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoàn
vào chùa chăm sóc nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau đó, đưa Ngọc Hoàn vào chầu Đường
Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoàn, bèn say mê, phong làm Quí Phi, gọi là Dương
Quí Phi. Như vậy, có nghĩa là Dương Quí Phi lấy cha chồng.
Dương Quí Phi thường đi tắm suối ở Tây
An. Nay ở đây người ta dựng tượng Dương Quí Phi tắm suối để kỷ niệm (xem hình).
Câu chuyện tình Lý Bạch và Dương
Quí Phi
Lý Bạch là người nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và Dương
Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch chỉ đáng mài mực và cởi giày
cho thiên hạ.
Bấy giờ vua Hung Nô gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô. Triều
thần không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch vào.Lý Bạch đọc thư và giải
thích cho vua nghe.Vua rất tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch
vâng mệnh nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra lệnh Cao Lự Sĩ cởi giày
và Dương Chấp Trung mài mực cho ông ta viết thư.
Dương Quí Phi và Lý Bạch là người cùng
thời. Lý Bạch cũng được Đường Minh Hoàng trọng vì tài, thường vời vào cung cùng
vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc
đẹp Dương Quí Phi, có hai câu đời sau còn nhắc nhở:
Phù dung như diện, liễu như mi
nghĩa là mặt như hoa phù
dung, mày như lá liễu.
Về sau, Đường Minh Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo quan, chỉ
xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến đâu, uống rượu khỏi trả tiền. Chủ
quán nhận tiền ở quan lại địa phương.
Một đêm, Lý Bạch chơi thuyền trên sông, quá say, thấy trăng ở đáy nước, bèn nhảy
xuống sông, ôm trăng mà chết.
Tôi không tin câu chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương Quí Phi có thể quá
gần gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen hay sao? Vì vậy, khi Đường Minh
Hoàng không ái mộ Lý Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu, cái
đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy xuống sông mà có thể một tên nào
đó, giả dạng theo hầu Lý Bạch, đạp cho ông ta một đạp rớt xuống sông, để Đường
Minh Hoàng thỏa mãn được việc ghen tuông.
Chuyện đã gần hai ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù tôi
“ăn ốc nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!
Sắc đẹp Dương Quí Phi
Như đã nói, sắc đẹp của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù dung
như diện, liễu như mi”. Xin nói thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt gọi
là bông cẩn (bông bụp), người Bắc gọi là hoa dâm bụt.
Lý Bạch trong “Thanh Bình Điệu” ca
tụng sắc đẹp của Ngọc Hoàn.
Vân tưởng y thường, hoa tưởng
dung,
Xuân phong phật hạm, lộ hoa
nùng.
Nhược chi quần ngọc sơn đầu
kiến,
Hội hướng Dao đài nguyệt hạ
phùng.
Ngô Tất Tố dịch:
Thoáng bóng mây hoa, nhớ
bóng hồng.
Gió xuân dìu dặt giọt sương
trong
Ví chăng non ngọc không nhìn
thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử
ngóng trông.
Lại trong “Trường Hận Ca”, nói về mối hận
tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi (vua ra lệnh giết cô ta), Bạch Cư Dị
viết về Dương Quí Phi như sau:
Qui lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vị Ương
liễu;
Phù dung như diện liễu như
mi
Đối thử như hà bất lệ thùy?
“Phù-dung như diện liễu như mi” nghĩa
là hoa phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.
Tản Đà dịch:
Mày liễu đâu? Cho lá còn
như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt
đầm
Nhà thơ Đinh Hùng tán tụng:
...
Em bâng khuâng hé nửa cặp
môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực
rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn
dại ...
(Giáp Mặt Phù Dung)
Phù dung, trong tiếng Việt, cũng có
nghĩa là “hút thuốc phiện”, có khi gọi là “Ả Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử
của “Ả”.
Khi
ở cung, Dương Quí Phi thường nhớ nhà.Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm lúc hoa
đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở phận mình, nước mắt tuôn rơi. Khi
Phi đưa tay sờ vào hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tàu gọi Dương
Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành ngữ là “hoa nhường nguyệt thẹn”.
Có
người không tin câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết đâu Dương
Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ thì gọi là cây trinh nữ.
Dương
Quý Phi đã đẹp lại có tài gảy đàn tỳ bà,
giỏi về âm nhạc.
Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu
múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn.
Loạn An Lộc Sơn
An
Lộc Sơn (ALS), gốc là người “Rợ Đột Quyết” (một chủng loại với Mông Cổ) là
tướng được Đường Minh Hoàng yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông với
ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc Sơn thù ghét Dương Quốc Trung, anh của Dương Quí
Phi. Ông nầy dựa vào thế em gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về Trường
An, quyết dẹp bỏ gian thần.
Quân
của An Lộc Sơn đánh bại quân của triều đình.
Vua
Đường Minh Hoàng phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng. Tuy vậy,
quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí Phi
chạy vào đất Thục.
Đến
Mã Ngôi (năm 756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc nhà vua phải
giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua vì cho rằng chính sự gian dâm giữa
Dương Quí Phi với An Lộc Sơn gây nên mối loạn nầy.
Vì sức ép của binh lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi, lúc ấy bà mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.
Sau
đó vua quan nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn, giành lại đất đai cũ.
Dương
Quí Phi là giai nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải là do sự
dâm dục mà ra, chứ là gì? Vua thì đã già, lại từng hoang dâm vô độ, nên sinh lý
đã yếu làm sao “thỏa mãn” Dương Quí Phi đang tuổi xuân.
Sự
dâm dục đã tạo nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường Hận Ca”.
Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của bà, nên cũng không ít người làm thơ.
Người
xưa đâu thì tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy trường Bồ Đề Huế
thì tôi gặp không ít lần, gặp ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa Lúa Mới
hay ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp. Ông bị tật bẩm sinh, đi đứng
không bình thường. So sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là khiên cưỡng. Và
ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là sau khi Việt Cộng “giải phóng
miền Nam”, ông bị đuổi khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông cũng “ôm cầm
thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối dép râu” như nhà thơ đỏ chống cộng cuội
Ngô Minh Hằng đang nổi cộm trên các diễn đàn mạng ngót 15 năm.
Ông Vũ Hân chết trong cảnh nghèo đói, cô
đơn (xem phụ lục).
Ông
cũng từng mơ Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:
“Khi xưa ta là Đường Minh
Hoàng
Ta mơ em là Dương Quí Phi.”
4)- Ngô Phù Sai
mất nước vì Tây Thi?
Sự
ưu ái của Ngô Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai sánh bằng.
Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:
Dựng “Cô Tô đài cung Quán Khuê
ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
“Ở đó có lập ra Hưởng Điệp
lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào
hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đó rất nhiều chum, bên trên lát ván, để
Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đó, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng
điệp.
“Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
“Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước
trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ
lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
“Lại có động gọi là động Tây
Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đó, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt,
nay người ta gọi là vết chân Tây Thi.
“Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường
cùng với Tây Thi gảy đàn ở đó.
“Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương
Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở
phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa.
“Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam
thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
“Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở
trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm
Phàm hình.
“Phía nam đô thành có Trường Châu uyển,
để làm nơi săn bắn.
Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
Áp Thành để nuôi vịt,
Kê Bi để nuôi gà,
Tửu Thành để nấu rượu.
“Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát
tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là
núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể
qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Tây Thi người nước Việt, sống vào thời
Xuân Thu, 506 trước Công Nguyên, không rõ mất lúc nào, năm nào, ở đâu, là một
trong “tứ đại mỹ nhân” của Tàu.
Khi cô gái giặt áo bên bờ
sông, bóng soi trên mặt nước sông trong suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy
nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong
vùng xưng tụng nàng là “Tây Thi Trầm Ngư”.
Ngô
Việt đánh nhau, Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư của Việt Câu
Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc, làm suy yếu nước Ngô.
Câu
Tiễn tuyển hai ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là Trịnh Đán và
Tây Thi.
Tây
Thi góp công lớn trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê triều
chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại đất nước.
Sau
khi đại thắng, vợ Việt Câu Tiễn muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn sẽ mê say
cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.
Tây
Thi và Phạm Lãi có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ Hồ, về sau
không ai biết hai người đi đâu .Có người bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.
Tô Đông Pha có bài thơ về Tây
Thi:
Thủy quang liễm diễm tình
phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ
Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm tran nồng mật tổn tương
nghi
(Nước dập dờn bừng khi nắng
dọi,
Nước nhạt nhoà xanh lúc mưa
về
Tây Hồ ví tựa Tây Thi
Điểm tranh đậm nhạt vẽ gì
cũng xinh
Người
ta thường cho rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn minh oan
cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:
“Nước
mất nhà tan bởi cơ trời
Sao
cứ Tây Thi đổ tội hoài
Tây
Tử nếu làm Ngô mất nước
Thì
xưa Việt mất bởi tay ai?
5)- Khúc Ca Tần Hoài
(Ai luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -
Dương Thiệu Tước - Đêm Tàn Bến Ngự).
Trần Hậu Chủ tên thật là Trần
Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời Nam - Bắc triều bên Tàu.
Ông nổi tiếng là người tài tử phong lưu,
ưa đàn hát vui chơi, trong cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nữ giai nhân, nổi
tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ Hoa, hai người rất được nhà vua sủng
ái.
Vua cho xây điện Quang Chiếu, toàn bằng
gỗ trầm hương để cùng các tài tử giai nhân xướng họa thơ phú, vui ca đàn hát.
Những bài thơ khúc hát soạn ra được
chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân
sau). Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm
đãng. Những cuộc vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.
Trần Hậu Chủ cũng soạn một
khúc hát Hậu Đình Hoa:
Nguyên tác là:
Lệ vũ phương lâm đối cao các
Trân trang điểm chất bản
khuynh thành,
Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất duy hàm thái tiếu tương
nghinh.
Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu
Đình.
Nghĩa:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu
các,
Nghiêng thành vẻ đẹp với màu
tươi.
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo
bước
Trước màn chào đón mỉm môi
cười,
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiếu sáng
ngời
Vua Văn Đế nhà
Tùy thừa dịp nhà Hậu Trần nầy, sai đem quân sang vây Đại Thành.
Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say rượu, chưa tỉnh.
Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho
rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát “Hậu Đình Hoa” ấy,
Đỗ Mục, nhân một đêm ghé thuyền
trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya mà bấy giờ trong quán,
khách còn say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để
mua vui cho khách.
Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia
sông, Đỗ Mục làm bài thơ, thường gọi là Tần Hoài Dạ Bạc.
Nguyên văn:
Yên lung hàn thủy, nguyệt
lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc
hận,
Cách giang do xướng "Hậu
Đình Hoa"
Khói bay, nước lạnh, khói
trăng pha,
Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu
gia.
Hận nước gái buôn không biết
rõ,
Cách sông còn hát “Hậu
Đình Hoa”.
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của
Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:
Vườn Tây Uyển khúc trùng
thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình
Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ
son.
Trong
bài hát “Đêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước có câu...
Thuyền mơ trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến, ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Khúc ca Tần Hoài chính là khúc Tần
Hoài Dạ Bạc nói ở trên.
Sông Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy,
lớn thứ ba sau Dương Tử và Hoàng Hà, không chảy ra biển mà đổ nước vào sông
Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài là một quận của Nam Kinh.
6)- Điêu Thuyền
“Bọn ta đều chết cả về tay người đàn bà
này”
(Lý Nho, mưu sĩ Đổng Trác)
Đổng
Trác lộng quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu Thuyền là con gái
nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp khiến trăng phải xấu hổ mà dấu mình đi (“bế
nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm nguyệt say hoa). Điêu Thuyền
là một trong “tứ đại mỹ nhân”.
Vương Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác,
nhưng xúi Điêu Thuyền ngoại tình với Lã Bố, con nuôi Đổng Trác. Thế rồi hai cha
con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.
Đổng Trác bị giết rồi, dân chúng thoát
khỏi ách cai trị tàn ác.
Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát,
ánh mắt của Điêu Thuyền được mô tả như sau:
Nhất điểm anh đào khải giáng
thần.
Lưỡng hàng toái ngọc phún
dương xuân.
Đinh hương thiệt thổ hành
cương kiếm.
Yêu trảm tà gian loạn quốc
thần!
dịch:
Một đóa anh đào chúm chím
môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân
tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi
kiếm:
Chém chết gian thần có lúc
thôi!
Bài hát ca ngợi vẻ đẹp Điêu
Thuyền:
Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm
y mây cuốn vương vương cánh hồng
Gót
hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Động đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân
một người!
Mao
Tôn Cương trong “Thánh Thán Ngoại Thư” bàn về Điêu Thuyền như sau:
“18 lộ quân chư hầu không giết nỗi Đổng
Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nỗi Trác.
Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không
thắng nỗi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nỗi.
Ôi,
lấy chăn chiếu làm chiến trường,
lấy son phấn làm khôi
giáp,
lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy nước mắt nũng nịu
làm tên đạn,
lấy lời tình tứ ngọt
ngào làm chiến lược mưu cơ.
Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ
tướng quân” quả là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"
Chuyện vặt:
- Tề Tuyên Vương:
Vua Tuyên Vương nước Tề trong khi nói
chuyện trị nước (chính-trị) với thầy Mạnh-tử, có nói câu “Quả-nhân hữu-tật, quả
nhân hiếu sắc (kẻ quả-nhân (tụ xưng) này có tật, kẻ quả-nhân này hiếu sắc). Đó
chỉ là một câu nói ví-dụ ở trong việc chính-trị, mà đây dùng lối “đoạn chương
thủ nghĩa” (cắt câu lấy nghĩa) cho thêm lý thú khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi
lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng quân-vương.
Tài-sắc đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi
lên đùng đùng.
(Cung
Oán Ngâm Khúc- Ôn Như Hầu).
- Thành Thái
Vua Đồng Khánh mất, ông Bửu Lân lên nối
ngôi, hiệu là Thành Thái. Vua thành Thái là người tiến bộ, chọn Tây học, và
cũng âm mưu chống Pháp, giành độc lập.
Để chuẩn bị công việc nầy, nhà vua thành
lập một đội nữ binh (lập nam binh sợ Tây lưu ý). Ông thường đi vi thiềng tìm
người, giả bộ nói là đi tìm người ông yêu. Do đó, trong dân chúng Huế có câu ca
dao, có người nói là do nhà vua đặt ra:
Kim
Luông có gái mỹ miều
Trẫm
thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Kim Luông, là nói trại tên làng Kim
Long, phía tây ngoại thành Huế, làng trù phú, có nhiều nhà quan, cũng là nơi có
họ đạo của ông giám mục Gaspar là “tên thực dân mặc áo chùng đen làm gián điệp
dọ thám nội tình nước ta” như cách thường gọi của người Huế.
Dù vậy, việc làm của vua Thành Thái cuối
cùng cũng bị bại lộ.
Người ta nói chính Trương
Như Cương, quan to trong triều, biết việc nầy, liền báo cho Tây biết,
để lật đổ vua Thành Thái mà đưa con rể của ông là Bửu Đáo, lên làm vua, tức là
Khải Định.
Cũng có người nói con gái Nguyễn Thân,
cung phi, cũng ở trong đội nữ binh, bị thương khi tập đánh gươm. Nguyễn Thân
vào thăm con, biết việc bèn báo cho Tây để lập công. (Theo sử, Nguyễn Thân là đại
Việt gian. Theo ông Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Thân là nhà ái quốc!)
Tây không đủ lý do truất phế ông về việc
chống Tây bèn ngụy tạo lý do, bảo rằng ông bị bệnh điên, hoang dâm, không làm
vua được.
Tây nói đúng hay dư luận dân chúng Huế
đúng?
- Ngô Tam Quế
Ngô Tam Quế làm tướng nhà Minh, được
giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan là biên giới giữa lãnh thổ nhà Minh và Mãn
Châu. Bấy giờ thế lực nhà Thanh ở Mãn Châu mạnh lắm, muốn cướp Trung Nguyên
nhưng không vượt được Sơn Hải Quan.
Bấy giờ ở kinh thành có loạn, Lý Tự
Thành đã diệt được nhà Minh, dự tính sẽ lên làm vua, cho người liên minh với
Ngô Tam Quế. Tam Quế có một người thiếp yêu ở kinh đô, bị một tướng của Lý Tự
Thành cướp mất. Vì vậy, Ngô Tam Quế tức giận, bỏ Sơn Hải Quan, liên hợp cùng
quân Thanh kéo về kinh đô để trừng trị kẻ đã cướp người thiếp của y. Nhờ đó,
nhà Thanh lên ngôi ở Bắc kinh, cai trị Trung Nguyên 300 năm. Người Tàu không
ngo ngoe gì được, phải chờ đến cuộc cách mạng Tân Hợi để
“nồi da xáo thịt” cho tới khi họ Tưởng thua chạy ra Đài Loan. (xem phụ lục
trích từ “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê).
Dĩ
nhiên, người được mê phải là người đẹp, còn như nói yêu người xấu, không hẵn là
không có, nhưng có thể coi như đó là ngoại lệ, ít khi.
Dã
sử còn nhắc chuyện vua nhà Lý gặp Ỷ Lan thứ phi. Bà xấu đẹp không biết nhưng mặt
lại rỗ. Khi bị bắt tới “trình diện” vua Lý, thấy mặt nàng, vua bảo sẽ ra một
câu đối, nếu đối được thì vua tha tội “khi quân” vì không chịu quì xuống, đứng
dựa (ỷ) vào cây “lan” khi kiệu vua đi qua. Câu vua ra là:
Rỗ
chằng, rỗ chịt, rỗ chín mười mươi.
Cô gái đối là:
Yên
nước, yên dân, yên luôn bốn bể.
Mê?
Người đàn ông mê gái, mê vợ bé, ít ai mê vợ cả. Vì vậy mới có câu ca dao:
“Gió
đưa bụi chuối, sau hè,
Anh
theo vợ bé bỏ bè con thơ”
Câu
thơ đầu thuộc thể hứng. Người vợ đêm nằm nghe tiếng lá chuối xào xạc sau hè,
khó ngủ nên nhớ tới người chồng bạc bẽo.
Thôi!
xin bà ngủ đi bà vợ cả. Sở dĩ bà bị chồng phụ là vì bà lớn tuổi rồi, bà già rồi,
bà là “gái xề” năm, ba mặt con rồi, bà chỉ còn là:
Chàng
ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp
là cơm nguội để khi đói lòng.
Chỉ
là “cơm nguội” thôi!!!
&
Tứ đại mỹ nhân và hầu như gần hết người
đẹp nước Tàu, nước ta, nước Nhựt... có mấy ai được “trường thọ”.Người thương
cũng nhiều mà người ghét cũng không ít. Thậm chí, nhiều khi cây cỏ cũng ghen.
Trong
“Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn” có câu:
“Cặp
mày xanh chiếc lá cũng ghen,
Câu
khiển hứng đánh chìm dòng nước chảy”
Chiếc
lá ghen với đôi mày đẹp, nên khi cung nữ viết vào lá vài câu thơ, thả xuống
giòng suối trong cung, nhờ lá trôi ra ngoài cung cấm, để lời tâm sự của cung nữ
được ai đó ở ngoài kia nhặt lá lên xem mà biết tới. Nhưng lá vì ghen sắc đẹp với
cung nữ, không trôi đi mà chìm xuống đáy nước.
Trong
truyện Kiều, Nguyễn Du nói rõ hơn: “Hoa ghen sắc thám, liễu hờn kém xanh”.
Cô
Kiều không chết sớm, nhưng cô phải chịu 15 năm lưu lạc chốn phong trần.
Xưa
thì cho người tài giỏi và người đẹp đều mệnh yểu như nhau:
“Giai
nhân tự cổ như danh tướng
Bất
hứa nhân gian kiến bạch đầu”.
(Danh tướng cũng như giai nhân, không hứa
ở với đời đến khi đầu bạc).
Ngay
thế kỷ 20, nhà thơ Jan Leiba cũng đồng ý như như vậy:
“Người
đẹp thường hay chết yểu
Thi
nhân đầu bạc sớm hơn ai!”
Hàn
Mặc Tử, Bích Khê, Quách Thoại qua đời khi chưa quá tuổi ba mươi!
Xưa
gọi là “tài mệnh tương đố”. Ngày nay, tôi không tin như vậy. Tin vào số mệnh,
chỉ là điều an ủi...
Hoàng Long Hải
Trích một đoạn trong sách Sử Trung
Quốc của học giả Nguyễn Hiến
Lê:
Ngô Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ
mười ngày trước, vẫn trùng trình, tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn
tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó của Lý Tự Thành không. Khi Tự Tôn
(tức Sùng Trinh Hoàng đế) tuẫn quốc, thì Quế mới tiến được có nửa đường tới Bắc
Kinh. Hay tin, hắn quay trở về liền để chờ xem tình thế ra sao.
Lý Tự Thành đã thành công một cách dễ
dàng...Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế (lúc
đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết
định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị một tướng của
Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân Thanh
giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (vàng), Quế vẫn làm
thinh.
Bực mình, Tự Thành phái hai tướng đem
20.000 quân tấn công Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Ngô Tam Quế
trước khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Lý Tự Thành phải
đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan, khi vây Quế ba mặt rồi,
quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua, rút lui, đề
nghị chia giang sơn với Quế; Quế không chịu, Tự Thành giết cha Quế rồi vội vàng
về Bắc Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu báu chất lên xe,
đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi cùng với quân đội rút lui...
Quế hy vọng đuổi được Tự Thành rồi, nhường
cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên
phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về, lại
sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó, vua
Thanh mới 7 tuổi (Khang Hy) được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc
Kinh, đặt lên ngai vàng.
Quế hay tin như người mất hồn, suốt ngày
đóng cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất ngôi vua
hay chức Tể tướng.
Hắn ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản quốc.
Khóc Vũ Hân
(Vũ Hân, quê Quảng Nam, bị tật bẩm sinh,
là một nhà thơ, - tác giả thi phẩm “Diễm Trang”, nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ
Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học, sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ lấy
cán ngố nón cối y như nhà thơ đỏ chống cộng cuội Ngô Minh Hằng đang nổi cộm
trên các diễn đàn mạng toàn cầu ngót 15 năm nay mà nhiều ông già gà mờ khù khờ
mê mệt như Nguyễn Kim Khánh (Trần Chính), Trần Doãn Thường, Võ Trọng Dân, Ngô
Ngọc Hiếu, Hồ Nam Trân, Charles Nguyen, Tây Độc Âu Dương Phong v.v…
Ông Vũ Hân chết trong cảnh nghèo khó.
Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin ông Vũ Hân qua đời).
Ức
Vũ quân hề lệ mãn khâm
Trường
Sơn Quảng địa nhất tinh trầm
Yên
hoa phong bút, hồn như tại
Hà
huống tao nhân ảo tỵ trần
bản
Nôm:
Thấm
bâu lệ nhớ bao lần
Quê
hương bỗng xót một vì sao rơi
Bút
hoa gởi lại với đời
Đành sao anh vội về nơi chia
đường.
Nhất phiến tài tình vạn cổ
thương
Nhàn văn độc khứ thệ hà
phương
Ô hô! Thế sự mai trường mộng
Hốt kiến trần khôi sở đoạn
trường
bản
Nôm:
Tài
hoa một kiếp thân thương
Cánh
mây biền biệt cuối đường phiêu du
Mộng
trường chôn chặt ngàn thu
Màu
tro xám lạnh bùi ngùi tâm can
Hoàng
Vũ
Truyền Thuyết 1:
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại làng Chử Xá huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chẳng
may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mặc. Lúc người
cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương
cha nên Chử Đồng Tử liệm khố
theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm
câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin
ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ
ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ
thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa
đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người
hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé
vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ
đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử trần
truồng dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi
xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô
cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà
Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng
kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có người bày cho cách ra ngoài
buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo
khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh
Tiên. Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang.
Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học
phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy
và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại
cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học
đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng
lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành
quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm
sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy
tôi. Từ đó chỗ ấy phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản,
vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên
Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa
đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của
Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống
thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là chợ Hà Thị
Truyền thuyết 2:
Trọng Thủy, Mỵ Châu
Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ
Loa, xây mãi không xong, vì có yêu quái (đặc công Việt Cộng) phá hoại. Nhà vua
bèn lập đàn cầu. Thần Kim Quy hiện ra, dẹp yêu quái nón cối và chỉ cho nhà vua
cách xây thành. Xây xong thành, thần Kim Quy còn tặng nhà vua một cái móng rùa
để làm lẫy nỏ thần, bắn một phát ra hàng vạn mũi tên.
Nhờ nỏ thần, mấy lần Triệu Đà đem quân
sang đánh đều bị đại bại. Triệu Đà bèn xin giao hòa rồi sai con trai là Trọng
Thủy sang cầu hôn với con gái vua An Dương Vương là Mỵ Châu. Thâm ý của Triệu
Đà là dùng con trai làm gián điệp do thám.
Vô tình, An Dương Vương thuận nghị hòa
và nhận lời cầu hôn của Trọng Thủy.
Trọng Thủy lập mưu dò hỏi, Mỵ Châu kể lại
cho chồng nghe chuyện chiếc nỏ thần.
Trọng Thủy nói với vợ muốn xem nỏ cho biết
sự linh nghiệm. Nghe lời chồng, Mỵ Châu lén lấy nỏ thần đưa cho chồng xem.
Trong Thủy bèn thừa cơ thay cái lẫy nỏ bằng một cái giả, rồi giả vờ nói với vợ
là nhớ nhà, xin phép về thăm cha mẹ.
Trước khi chia tay, Trọng Thuỷ hỏi vợ:
- “Trong lúc xa nhau, lỡ có giặc thì làm
sao tìm nhau?”
Mỵ Châu nói:
- “Thiếp có chiếc áo lông ngỗng, khi chạy
giặc, thiếp
sẽ rải lông ngỗng dọc đường, chàng cứ
theo dấu mà tìm thiếp.”
Triệu Đà được cái lẫy nỏ, bèn đem quân
đánh Thục Phán. An Dương Vương tin vào nỏ thần, không phòng bị gì cả. Khi giặc
đến chân thành, bèn lấy nỏ thần ra bắn, thấy nỏ không còn hiệu nghiệm, bèn đem
Mỵ Châu lên ngựa, cùng chạy trốn. Chạy mãi vẫn thấy quân giặc đuổi theo sau.
Đến núi Mô Dạ thì cùng đường, vua bèn khấn
cầu thần Kim Qui giúp đỡ. Thần hiện lên nói:
- “Giặc ngồi sau lưng bệ hạ đó!”
(Giặc ngồi ở đàng sau, bệ hạ đừng mong
khôi phục cơ đồ).
Bấy giờ nhà vua mới hiểu ra, bèn rút
gươm chém chết Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự vẫn.
Thục Phán chết rồi, hóa thành con chim
quốc, cứ đêm nhớ nước mà gọi “quốc, quốc” kêu đến sáng thỉ vỡ họng mà chết.
Nguyễn Khuyến có bài thơ, ông làm ra khi nước ta bị Pháp mới đặt nền đô hộ:
Quốc
kêu cảm hứng
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng
lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè
váng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt
mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ròng rã kêu ai đó,
Giục khách giang hồ dạ ngẩn
ngơ
Bài thơ “Qua Đèo Ngang” cũng có mấy câu,
nhưng chữ nước của bà Huyện là ám chỉ “Lê Triều”.Trong văn học, các nhà phê
bình phân loại bà thuôc nhóm “Hoài niệm Lê Triều”.
Qua
đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế
tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài
chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc! (X)
Thương nhà mỏi miệng cái gia
gia!
Dừng chân ngoảnh lại trời
non nước
Một mảnh tình riêng ta với
ta
(X)
Chim Quốc, (người Bắc thường gọi là chim Cuốc – “Ai xui con cuốc gọi vào hè” -
Nguyễn Khuyến) và cũng là chim đa đa. Chữ đa cũng đọc thành da (cây đa, cây
da), chữ da người Bắc viết là gia, nên câu thơ trên quốc đối với gia. Chữ gia,
chữ Nôm viết là da (đại khái như giòng sông và dòng sông).
Sau
khi tìm được vợ, Trọng Thủy đau đớn quá, trở về Loa Thành, nhảy xuống cái giếng
trong đó mà chết.
Chuyện
xưa cũng kể rằng, khi bị chém chết, máu của Mỵ Châu chảy xuống biển, những con
trai ở biển Mộ Dạ (bên núi Mộ Dạ) ăn những máu ấy. Lấy hột trai của những con
trai nầy, đem rửa với nước giếng trong Loa Thành, nơi Trong Thủy tự tử, ngọc ấy
sẽ sáng lên rất đẹp!
Bệnh Giang Mai:
Anh em trai chúng tôi có 4 người, khi đến
tuổi thành niên, mẹ tôi thường răn dạy, ngăn ngừa trong việc quan hệ nam nữ, sợ
chúng tôi mắc bệnh phong tình, kỵ nhứt là bệnh giang mai, gây họa đến mấy đời.
Theo mẹ tôi nói, hiện tượng trẻ bị sứt môi là một thí dụ, do vi trùng giang mai
gây ra. Vi trùng nầy tiềm ẩn nhiều thế hệ. Bệnh giang mai do sự kiện Dương Quí
Phi bị hiếp dâm sau khi đã chết mà gây ra. Dù đã chết, nhưng Dương Quí Phi đẹp
quá, làm cho binh lính nhà vua cũng động tình, mượn cớ trả thù, làm bậy trên
xác tử thi trong lúc giặc giả hoảng loạn. Cũng do việc nầy, bệnh giang mai là
tên đọc trại của Dương Mai, phát xuất từ tên thuở nhỏ Dương Quí Phi.
Ngày
nay, có lẽ y học chưa xác nhận sự kiện lịch sử nầy, nhưng có lẽ mẹ tôi cũng học
được khi làm ở bệnh viện Quảng Trị, khi còn trẻ mẹ tôi làm việc ở đấy?
Việc
nầy đúng không?
Hoàng
Long Hải
No comments:
Post a Comment