Sài Gòn, một thời của một đời… – Nguyễn
Mạnh Trinh
Nguyễn Mạnh Trinh Có nhiều bài thơ về Sài Gòn. Thành phố ấy,
với nhiều người, là thánh địa của kỷ niệm…Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài Gòn,
là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều”, là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh”, là
“Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan” là “Sài Gòn tối đi học một mình”, là “Sài
Gòn cười đôi môi rất tròn”, là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay”…Với Quách
Thoại buổi sáng, là “sáng nay tôi bước ra giữa thị thành/ để nghe phố nói nỗi
niềm mới lạ/ tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá/ cả âm thanh của cuộc sống
mọi người/ một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi/ trên tim nóng trong linh hồn
tất cả /..”Với Trần Dạ Từ là buổi trưa, về Thị Nghè: “vẫn một mặt trời trên
mỗi chúng ta/ và mỗi chúng ta trên một bóng hình/ tôi vô giác như mặt đường
nhựa ẩm/ trũng nỗi sầu đau náo nức lưu thông/ mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng/
tôi chạy điên trong một bánh xe tròn/ và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước
xuống/ ôi chiếc cầu, ôi sở thú, ôi giòng sông/..” Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm
lạnh Sài Gòn/ mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi/ mưa hay trời cũng thế
thôi/ đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang/..” Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La
Pagode ngắm người/ thấy em nhức nhối nói cười lượn qua/ mini-jupe trắng nõn
nà/ vàng thu gió lộng chiều sa gót giày/ ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay/ hồn
thơ thức mộng trọn ngày bình yên/”… Với Bùi Chí Vinh, là ngày bãi trường mùa hạ
“những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng/ em chở mùa hè của tôi đi đâu/ chùm phượng
vĩ là tuổi tôi mười tám/ tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu..”.. Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây
xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của
cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc
nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào
quên. Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm;
là những con đường quen thân, nhắc lại một thuở ấu thời; là ngôi trường Chu
Văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học; là trường Khoa Học, là
trường Luật trước khi vào lính; là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơn Nhứt
khi vừa nhập ngũ; là những mơ mộng tuổi trẻ, lúc vừa bước vào đời sống quân
đội trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh. Buổi trưa, nằm dài trên sân cỏ mượt nhìn lên
nóc nhà thờ Ngã Sáu, dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai nhìn theo
những sợi mây bay qua. Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi,
thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình. Mây bay đi, như đời trôi
qua. “Nằm trên cỏ nhìn trời cao Lung linh sợi nắng thuở nào phai phai Nhìn tượng Chúa dưới tàng cây Giơ vai trĩu nặng tháng ngày chiến tranh Mùa hạ mấy bước đi quanh Cổng trường đóng những đoạn đành thế thôi Ngày mai đi bốn phương trời Mây phiêu lãng chợt thương đời phù du..” Sài Gòn những mùa thu. Có những con đường
xôn xao áo lụa. Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để
đêm về, trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai: “Thành phố ấy , xôn xao tà áo trắng Nắng hanh vàng trải lụa những mùa thu Guốc chân sáo để hồn ai ngơ ngẩn Bước mênh mang nghe quẩn sợi sương mù Mây vào áo lồng lộng bay chiều gió Lụa trắng trong e ấp buổi hẹn hò Sợi mi cong tưởng chập chờn ngực thở Tóc ai buông dài xõa những câu thơ Thành phố ấy, mấy ngã tư đèn đỏ Ai chờ ai khi kẻng đánh tan trường Bài thơ trao còn nguyên trong cuốn vở Thuở ngại ngùng lần bước đến yêu thương..” Sài Gòn của một thời mặc áo lính. Khi ở xứ
biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen, trên máy
bay lượn vòng thành phố, nghe như mình đã trở về quê hương mình. Khi đổi về
đơn vị ở phi trường Biên Hòa, mỗi buổi sáng tinh sương ghé phở Tàu Bay, ăn tô
phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm, nay nhớ lại còn trong dư
vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ. Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính
nhập khóa với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập
cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất
nước. Lúc ấy, mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng: “Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ Chọn không gian tổ quốc mênh mông Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ Vào lửa binh không chút nao lòng Chia sẻ với nhau thời bão gió Đời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn Cánh chim phiêu bạc ngàn cổ độ Tử sinh ai luận chuyện mất còn? Ngồi uống cùng nhau các hảo hán Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường Sách vở giảng đường thành dĩ vãng Những chàng trai dệt mộng muôn phương..” Rồi, vận nước đến thời, gia đình ly tán, đi
vào trại tù, nếm đủ những cay đắng của đời tù cải tạo lao động khổ sai. Khi
trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người xưa đã khác. Như Từ Thức về trần, cả
một thế thời thay đổi. Người về, từ trại tù nhỏ sang qua nhà giam
lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc,
trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ, ở chính ngôi nhà của mình. Nơi sẽ
định cư của những người tù cải tạo, là những vùng kinh tế mới xa xăm, những
nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ, làm người lạ mặt: “Đỏ bầm mặt nhựt cơn mê Lạnh tanh khuôn mắt người về dửng dưng Vào ra lối rẽ ngập ngừng Mấy năm sao lạ, nỗi mừng chợt xa Cầu thang quẩn dấu chân qua Đời như hạt nước mưa sa bóng chiều Từ rừng máu giọt gót xiêu Thảm thương phố cũ nắng thiêu mộng người Đỏ bầm ánh điện đường soi Cây nhân sinh chợt nẩy chồi cuồng điên Nhìn soi mói nụ cười đen Mắt hằn dấu đóng chao nghiêng một ngày.” Về trình diện công an khu vực, nhìn nụ cười
gằn vừa mỉa mai vừa soi mói, nhìn đôi mắt cú đóng dấu vào một ngày thất thế
của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa. Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm, vẫn còn âm
hưởng của một cuộc chiến chưa tàn. Trên chuyến xe bus nội ô, một người lính
què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới
cờ. Quân Lực VNCH là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm
của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng… “Trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi Ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến Người trở về từ cuộc chiến lãng quên Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác Dắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời Người thua trận phần thịt xương bỏ lại Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời Chuyến xe vang lời thơ nào năm cũ Nhắc chặng đường binh lửa thuở xa xưa Khói mịt mù thời chiến tranh bụi phủ Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc Thuở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược Dấu giày buồn còn vết giữa sình lầy Nghe lời hát tưởng đến người gục ngã Cả chuyến xe chia sẻ một nỗi niềm Âm thanh cao xoáy tròn dù gỗ đá Thức hồn người vào nhịp thở chưa quên Ơi tiếng hát vinh danh đời lính chiến Cho máu xương không uổng phí ngày mai Có sương khói từ mắt thầm cầu nguyện Cho lỡ làng không trĩu nặng bờ vai Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ Đây thịt xương còn sót lại một đời Còn ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ Dù rã rời nhưng vẫn thắm nụ cười Ta nghe rực trong hồn trăm bó đuốc Mặt trời lên xua tăm tối cho đời…”
Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa
quậy trong nan lồng. Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ
lên đầu người dân nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình
diện công an, rồi mỗi tuần, mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng.
Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh,
người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình. Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở Bến Tre bị
công an tỉnh này lên Sài Gòn tìm bắt . May là thoát được nên sau đó là phải
sống lang thang đêm ngủ chỗ này tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp
xe đi tìm chỗ tạm trú, mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la
rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân. Những buổi chiều nắng quái, đi trong thành
phố, mới thấy cảm giác của một kẻ cô đơn như con chuột đang cuống cuồng trong
lồng giữa cơn mạt lộ. Thấy đi tới đâu cũng gặp những cặp mắt ngại
ngùng của những người thân, từ chối thì không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy
nên tôi phải tìm một phương cách để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay khách
sạn cực kỳ nguy hiểm, nên chỉ có một cách là trà trộn vào những người ngủ
ngoài đường. Lúc ấy, ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè
phố. Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực hay những
người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã
Bảy. Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ
có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có
gì xảy ra. Tôi có xem một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của
nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh
lòng. Thì ra, ở lúc ấy, có nhiều người chung cảnh
ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu
chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành, bắt người không cần lý do, kinh
tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ, cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn, kỹ nghệ
trì trệ không sản xuất được gì đáng kể. Rồi chính sách phân biệt đối xử, giáo dục
thì nhồi sọ, hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là
thực tài, y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại làm
việc tắc trách. Thật là một thời tệ mạt nhất trong lịch sử dân tọc ta. Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng,
kiếm một chỗ qua đêm, tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Có những bà mẹ góp nhóp
tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang
thang lếch thếch chờ đợi. Cũng có những người không nhà, nằm la liệt
dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống
trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn
kiếm ăn. Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình, hừng
hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm. Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng
chửi than trời trách đất cứ dòn dã. Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị
chai sạn đi. Công an từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như
một trò chơi cút bắt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy. “ … Hè phố rác lạc loài hoa dại Nở buồn tênh phiến gạch ngậm ngùi Cỏ đớn hèn hạt sầu kết trái Ươm bao năm dầu dãi nụ cười Ngủ chợp mắt đèn khuya vụn vỡ Ho khan ai quằn quại phổi khô Tiếng còi hú nhát đinh vỡ sọ Nghiến xe lăn tim nhịp chày vồ Rưng não tủy bầu trời tháng chạp Cành cỏ khô héo mãi phận mình Ở vu vơ ngỡ ngàng tiếng khóc Đêm bến xe tưởng chốn u minh Đường bảy nhánh chỗ nào phải lối Ngủ nơi đâu còi rúc giới nghiêm Như tiếng cú rúc trong huyệt tối Người lao xao cõi tạm cuồng điên Gió nhọn hoắt ngon lành da thịt Mưa giọt soi mộng dữ chân người Ánh đèn pin mắt ai tội nghiệp Bờ đá xanh lạnh buốt chăn đời..” Ở một đất nước vào thời kỳ mà cây cột đèn
nếu đi được cũng muốn vượt biển, thì còn con đường nào khác hơn là thách đố
với định mệnh. Những lần sửa soạn ra đi, tự nhủ hãy đi một
vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông,
những cây cầu, những dãy phố, mỗi nơi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra
đi như mất mát một phần đời sống mình. Có buổi tối, đi trong mưa, để tưởng
nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi
tìm vần thơ. “Mai ta đi xa. Thôi giã từ thành phố. Lòng
đau như cắt trong lúc giã từ Ta thắp nến đọc hoài trang sách kể Chuyện người tù vượt ngục suốt một đời Ta hừng hực cánh buồm chờ gió đẩy Sống một ngày thêm thúc giục khôn nguôi Đã đắp xóa bao lần cơn mộng biếc Đường phải đi cho đến lúc xuôi tay Sóng loạn cuồng con thuyền trôi biền biệt Giăng buồm lên phương viễn xứ một ngày Ta cũng biết còn xa vùng đất hứa Phải đi qua địa ngục chín mươi tầng Đời hiện tại xích xiềng thêm bão lửa Nỗi niềm riêng còn khóe mắt thương than Đã thấm thía ngày qua ngày tù tội Chim trong lồng mơ vùng vẫy trời cao Cười khinh mạn những chão thừng buộc trói Về phương đông nơi bến đỗ tay chào Mộng ước mãi chiều nao vời cố quận Chim sẻ ngoan còn ríu rít phố phường Loài ác điểu vẫn gây căm tạo hận Bẫy gai chông ngầm phục ở quê hương Ta tin tưởng có quỉ thần dẫn lối Dù giặc thù vây bủa cả không trung Còn một chén nốc ngụm men vời vợi Gió chuyển rồi thôi đến lúc lên đường Chuyện sinh tử giỡn chơi thêm ván cuối Cạn láng rồi thử thách với phong ba Ngôi tinh đẩu dẫn ta về bến đợi Đường biển vẽ rồi tay lái thẳng lối qua.” Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố
đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những
tâm tình thuở nào của một thời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài
viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều
gì trân quí. Thôi vĩnh biệt Sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt của người vừa đánh
mất một phần đời sống mình… Nguyễn Mạnh Trinh |
No comments:
Post a Comment