Đá Mòn Nhưng Dạ Chẳng Mòn -
Tiểu Tử
Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng nhỏ
này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói : Ba má già rồi mà ở trong
Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh lên bịnh
xuống hoài. Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris . . .
Nhà có đất chung quanh, có mấy cây
pomme, mấy cây cerise. Hồi dọn về là đầu mùa xuân , mấy cây đó trổ bông màu hường
màu trắng đầy cành. Ở mấy nhà hàng xóm cũng vậy, hoa nở rộ hầu như cùng một
lúc, nên trông thật là đẹp mắt. Biết là mùa xuân nhờ hoa nở và chồi non,
chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi . . . trật lất. Mùa xuân mà cứ
tưởng như mùa thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ sương mù. Cứ như vậy
kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa hè mà vẫn còn nghe lành lạnh!<!>
Hôm nay tự nhiên trời bỗng trở nắng. Nắng
thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi đầy sân : quần áo, drap, mền
. . . Đủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!
Tôi cũng thấy phấn khởi, bèn rủ nhà tôi
đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ những lúc phải “xẹt” ra
tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v. . . chúng tôi cứ ru rú ở trong nhà vì
thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên .
. .
Làng này tuy nhỏ nhưng ngăn nắp, sạch sẽ.
Ở đâu cũng thấy trồng bông : dọc theo vỉa hè, ở các ngã ba ngã tư, mặt tiền nhà
phố . . . Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một vuông đất cao hơn mặt
đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.
Chảy ngang qua làng là một con suối nhỏ,
rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc quanh quanh trước khi rời
làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con đường tráng xi-măng chạy dọc
theo hai hàng cây. Rải rác, có mấy băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những
lùm bông đầy màu sắc. Có nơi, không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ
nước giống như làm chỗ ngồi cho người đi câu!
Tôi ngồi xuốncg một cái băng cạnh bờ nước.
Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt điếu thuốc rồi nhìn quanh
: chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra đường vào ngày chủ nhựt, bởi
vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải đi Lễ nhà thờ. Còn ngày thường
thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng trên hè phố hay dọc bờ suối khi
nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên,
tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng . . . Lại nhìn quanh, chỉ thấy xa dưới kia là gác
chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!
Con suối không sâu, nước trong nhìn thấy
đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn, nước bắn lên trắng
xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.
Lòng suối đầy đá cuội tròn tròn. Cũng có
những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc cạnh. Viên nào cũng nhẵn
thín.
Nhìn nước chảy, nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ
đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy vẫn còn
trơ trơ. . .”
Hai câu thơ đó không có gì hết, vậy mà
nó làm tôi ứa nước mắt ! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời thơ ấu, thuở học vui học
buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”, mà nó còn nhắc tôi một cái gì sâu đậm
hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là không gian thời gian, một
cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang mểnh trong tâm tư, giống như
một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê hương xa cách ngàn trùng!
Tính ra, tôi bỏ xứ ra đi đã hơn hai mươi
bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu lo dằn vật, thêm tuổi
đời cứ chồng chất mãi lên. . . nên ký ức bị xói mòn theo năm tháng. Đến nỗi
chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước. . . có khi không nhớ! Vậy mà
hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với những kỷ niệm
vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác là nó bật lên
rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó mới hôm qua
hôm kia. . . Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?
Nơi tôi sanh trưởng cũng là một cái làng
nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng bằng những bông hoa
đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy ngang để hai bờ được nối
với nhau bằng cây cầu đá. . .
Làng tôi nằm bên tả ngạn một con sông lớn,
quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu ! Con sông đó có cái tên chẳng chút gì
‘văn chương’ : sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường tráng nhựa : đó là
đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm trên xóm dưới. Ngoài
ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những con đường mòn, nối xóm
Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa … Cho nên những con đường trong
làng đều chạy cong cong quanh quanh!
Làng tôi cũng có chợ nhà lồng, ngày nào
cũng nhóm, nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là “Nhà Việc”, nơi . . .
làm việc của những “nhà chức trách” trong làng. Xế xế về phía con lộ cái là trường
tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng tôi không có nhà thờ nhưng có một
‘kiểng’ chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh chung quanh. Hồi tôi còn
nhỏ, thấy cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi đó, tôi ít dám đi ngang
qua đó một mình vì . . . sợ ma!) Về sau, dân chúng càng ngày càng đông, nhà cửa
cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa, rồi “đi” xa hơn về phía con lộ
cái. Vì vậy, chùa bị lọt trũm giữa khu nhà dân, không còn biệt lập như trước.
Nhà cửa trong làng nhỏ lớn gì cũng có
hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông bụp (cũng gọi là
bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn nà mỏng manh như
lụa, khác hẵn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì cứ nở thè lè đỏ
cây. . .
Đó! Làng tôi đó! Quê trân!
Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao tôi vẫn thương.
. . .Thương những con đường đất mà hai
bên là bờ cỏ may. Đến mùa, cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực
bám đầy ống quần nào bất chợt đi ngang.
. . .Thương những đoạn đường quằn, mùa
mưa nước ngập phải xăn quần tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng
nằm lăn chập chũm, tóe nước nhau cười vui như hội.
. . .Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây
dừa trồng không thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai
nấy trồng”! Mấy cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để
giữ gốc, chúng nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình
đưa ngọn đứng thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo
lên đó để phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền
chiếu ra vắt lên đó để phơi.
. . .Thương con đường lên chùa có hai bờ
tre xanh lả ngọn giao nhau làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở
đó, mỗi trưa đứng bóng, những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp
nắng, và chiều chiều đường vắng cũng thấy thẫn thơ một cặp gái trai . . .
. . .Thương cả cây phượng nằm bên bờ đường
trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ lấn luôn ra mặt đường. Ai
đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Đó là cây phượng độc nhứt ở trong làng.
Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết hằng năm vào mùa thi là
cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
. . .Và còn thương nhiều thứ nữa, kể biết
bao giờ cho hết!
Nhà tôi ở trong Xóm Mới. Gia đình tôi
nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra ngồi bán ngoài chợ.
Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai : tôi và thằng Cu, nhỏ hơn tôi sáu tuổi. Cha
tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu . . .
. . .Nhớ hoài, thời tôi học tiểu học.
Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp đựng sách vở mà
ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo mẹ tôi ra chợ.
Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để nó ngồi trong một
cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối, xôi, nhưn, dừa nạo
v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà bước chân đi sai sải.
Đòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu lâu, mẹ đổi vai, đầu
đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta cười hắc hắc để lòi
bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thuờng gọi tôi để khoe : “Hai !
Hai ! Coi nhè ! Coi nhè!”.
Tôi học chỉ có buổi sáng. Mẹ tôi bán ở
chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh thằng Cu đến ngồi đợi
tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng Cu đứng lên, vừa nhảy
tưng tưng trong cái thúng vừa la : “Hai! Hai!”. Anh ta ở truồng – lúc nào cũng ở
truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may cho, đầu đội cái nón hình
chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân nhan . . . Mẹ đưa tôi gói xôi
(đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói) tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa
ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên kia đường xin một gáo nước ở
nhà thầy giáo Hiển, rồi mang cho ba mẹ con uống (vì trong trường chỉ có một lu
nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt trước nhà thêm một lu. Vào giờ
ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến.) Uống xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi
thông thả, tôi lon ton chạy theo song song . . .
Hồi đó, vì phải chạy lúp xúp nên có lần
tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà mình cứ phải chạy theo
lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân không, mỗi bước chân của mẹ
giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây
giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này, tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy
được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn chân to bề ngang, mấy ngón chân
chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân xấu xí đó chưa từng đụng tới
đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi guốc dong khi rửa chân đi ngủ,
hay khi đi dự dám giổ, đám tang . . . Hai bàn chân đó đã bám lấy đất để đứng vững
một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè cục mịch cho được?
Tôi bồi hồi nhớ lại lần tôi lau rửa đôi
bàn chân của mẹ. Đó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài nằm bịnh ở nhà
thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Đắc Lắc…) Tôi lau chân
mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi lau gót chân nứt nẻ.
Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân tròn cứng như những hòn
sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả sự thận trọng như khi
lau một món đồ thật là trân quí…
Tôi đốt điếu thuốc, thở một hơi khói dài.
Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén hút thuốc. Mẹ tôi thấy
được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”: “Hai ! Ai cho mầy
hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai, nói tao nghe coi? Mới
có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!”. Rồi mẹ chụp cây chổi chà dựng gần đó:
“Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói “Chừa nè!” vừa đập cây chổi lên
đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi. Mẹ đánh một lúc
rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn rằn đấp lên mặt
khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương sống, không thấy đau
ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên tôi làm cho mẹ tôi
khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng : “Dạ . . . con xin chừa . . . “
Vậy mà lớn lên, khi ra đời, tôi đã . . .
không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở tiền đồn trời
khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”. . . Mỗi lần về phép, chẳng
bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo theo ám ảnh!
Tôi hút ngoài đường . . .
Một hôm, đang đứng hút thuốc với mấy thằng
bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng điếu thuốc xuống đất. Mẹ
tôi dừng lại, mỉm cười : “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy lớn rồi chớ bộ còn
con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt mầy chừa!” Rồi bỏ
đi một nước!
Mẹ tôi như vậy đó. Quê mùa mộc mạc như
làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ tôi phải đẹp, quê
hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với tôi từ thuở tôi ra
chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ, giữa lòng quê
hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình ảnh của mẹ, của
quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi thương tôi nhớ. Và
tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã ngoài bảy mươi . . .
* * *
Mặt trời đã lên cao. Thấy có vài người hứng
nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên man nghĩ: “Những hình ảnh mà
mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy. Mình phải viết ra để cho nó
có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu của mình thấy và hiểu tại sao
hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và ông của chúng nó không nói
‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân đất và cái làng quê mùa
không có đến hai con đường tráng nhựa!”
Vào nhà, tôi đi thẳng lại bàn viết. Vợ
tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp
giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp mấy ngụm nước trà để trợ hứng.
Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy . . .
Tôi cầm bút nắn nót viết cái tựa bằng chữ
hoa: “ĐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN”...
No comments:
Post a Comment