Cậu bé CHĂN TRÂU và văn
bằng TIẾN SĨ KINH TẾ
Thưa các bạn, câu chuyện tôi muốn kể sau
đây về “Sức Vươn Lên Của Cậu Bé Chăn Trâu 11 Tuổi” tên Quảng. Quảng
và tôi có một nhân duyên kỳ lạ có lẽ kết lại từ bao kiếp trước để run rủi kiếp
này có những ràng buộc dù muốn hay không đã trở thành con nuôi của tôi.
Quảng sinh ra và lớn lên tại núi đồi Yên
Bái, vùng sâu và xa, nơi đa số toàn người sắc tộc thiểu số, đêm đêm chỉ có tiếng
ếch nhái ễnh ương nỉ non hay khỉ ho gà gáy từ rừng xa vọng lại.
Nếu năm 1975 vùng kinh tế mới, cộng sản
dành cho người dân miền Nam thuộc thành phần tư sản và “ngụy quân, ngụy
quyền” bị đẩy ra khỏi thành phố về nơi hẻo lánh rừng núi hoang vu đất cằn
cày lên sỏi đá; thì năm 1954 tại miền Bắc, những nơi rừng thiêng nước độc giáp
với biên giới Trung Quốc như Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái…
v.v… họ đày thành phần “trí, phú, địa, hào” bị kết tội “phản động” dìm
xuống tận cùng đất đen, không một cơ hội nào ngoi lên được.
Chính nơi này, năm 1969 Quảng được sinh
ra, cất tiếng khóc chào đời rồi chịu mọi nỗi gian khổ vất vả trong cuộc sống.
Quảng thứ giữa trong bảy anh chị em (ba trai, bốn gái) và là con người em trai
của chồng tôi. Hồi nhỏ công việc thường nhật của Quảng chỉ chăn trâu, học hành
lõm bõm vài ba chữ mà còn dốt và tinh nghịch phá phách nhất nhà.
Sau 1975, liên lạc được với miền Nam,
hay tin chúng tôi hiếm muộn, nhà đơn chiếc, chồng tôi đi tù cải tạo, chỉ còn
tôi và cụ bố chồng 70 tuổi; cụ không họ hàng thân thích vì năm 1954 cụ di cư
vào Nam với mỗi chồng tôi. Nắm lấy cơ hội này, người em trai của chồng tôi muốn…
tống Quảng cho làm con nuôi tôi để tôi hủ hỉ đỡ buồn, phần cho Quảng gần ông nội,
một nhà nho cực kỳ nghiêm khắc để dạy bảo Quảng; phần khác vì trong Nam, Quảng
có cơ hội học hành dù sao vẫn hơn miền núi. Tiếc là hồi đó, chính tôi còn không
nuôi được thân, nhà chồng lại nghèo, tôi vắt giò lên cổ kiếm cơm, tôi lấy gì
nuôi Quảng?!
Rồi trước cuộc sống bế tắc, một mình,
tôi tìm đường vượt biên.
Ngày tôi định cư tại Thụy Sĩ, cũng là
lúc Quảng được gởi vào Sài Gòn với nhiệm vụ trông nom săn sóc ông nội thay tôi.
Lúc đó, Quảng đúng 11 tuổi. Có lẽ gian khổ quen, bẩm sinh lại táy máy tinh nghịch,
tiềm năng của người tháo vát nhanh nhẹn, Quảng bắt kịp nhanh với đời sống trong
Nam. Hằng ngày ngoài giờ học, Quảng phải đi chợ, nấu nướng, quét dọn nhà cửa,
giặt giũ cho mình và ông nội. Tài chánh, có tôi ở hải ngoại gởi về, đương nhiên
không phải lo nghĩ gì nữa.
Phải nói, số Quảng rất đặc biệt. Trong
Nam, Quảng gặp nhiều kỳ duyên. Những nhân tài miền Nam từ văn cho tới võ, nhất
là kịp lúc chồng tôi năm 1984 cùng đa số sĩ quan ào ạt từ tù trở về, Quảng may
mắn được nhận cho thọ giáo. Về võ, Quảng được gởi học với ông Đẩu, võ sư của
quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Về văn, Quảng được ông nội và chồng tôi, hướng dẫn
đọc hết tủ sách còn sót lại trong nhà, sau khi một số đã bị đốt trong chiến dịch
“Bài trừ văn hóa đồi trụy Mỹ, Ngụy” theo chính sách “tẩy não” dân
miền Nam của cộng sản. Anh văn, Quảng học với cô giáo du học Hoa Kỳ về thăm quê
hương bị kẹt tại Việt Nam…
Mười tám tuổi, Quảng khả dĩ đủ vốn liếng
hộ thân: Kiến thức rộng, biết viết văn, làm thơ, thông thạo Anh văn và võ giỏi.
Tại trường, Quảng luôn được đề cử làm thông dịch cho trường (cả sau này, khi Quảng
vượt biên đến đảo Pulau Bidong, Malaysia, Quảng cũng làm thông dịch viên cho
Cao ủy Liên Hiệp Quốc nữa). Về võ, Quảng có thể dùng cùi chỏ đập nát một quả sầu
riêng, hay quả dừa xanh, dùng hai ngón tay đập bể quả cau, dùng sắt đập vào khuỷu
chân, xương không gãy mà sắt cong, gồng mình dùng mác đâm cổ mà không lủng. Hồi
đó, Quảng được mời đi biểu diễn hoài tại Nhà hát lớn Thành phố khi có phái đoàn
nước ngoài đến Việt Nam thăm viếng.
Tiếc thay, với khả năng như thế, học
xong tú tài, tương lai Quảng bị khựng lại, mờ mịt như đêm ba mươi khi sơ yếu lý
lịch không là khuôn vàng thước ngọc để cộng sản đo đếm tài năng mà chỉ để phân
biệt thù hay bạn. Chính sách “hồng hơn chuyên” hay chủ trương “lý lịch
trao quyền” của chế độ cộng sản chỉ đưa người của họ vào những địa vị quan
trọng, đã giết chết bao người con ưu tú của dân tộc, nếu ông, cha họ khác chính
kiến với chính quyền. Thật là một sự lãng phí tiềm năng chất xám không thể nghĩ
bàn khi trí thức bị đẩy vào lao tù, bị đày đi vùng kinh tế mới.
Với lý lịch xét ba đời của chế độ, lại
thêm Quảng không có hộ khẩu tại Sài Gòn, Quảng như kẻ sống bên lề xã hội, không
được tiếp tục đại học. Trước tương lai mờ mịt, Quảng mơ ước tung bay. Và Quảng
tìm cách vượt biên…
Ngày Quảng đến được Pulau Bidong,
Malaysia năm 1989 cũng là lúc có lệnh đình chỉ người tị nạn đến các nước thứ
ba. Chồng tôi đã đến Thụy Sĩ trước Quảng hai năm, chúng tôi vẫn chưa có con,
vin vào lý do này, chúng tôi làm đơn xin chính phủ Thụy Sĩ xét nhân đạo nhận Quảng
làm con nuôi.
Tại Thụy Sĩ
Ngày Quảng đến Thụy Sĩ, chuyến bay đáp
xuống phi trường lúc sáu giờ sáng. Đây là lần đầu tiên tôi và Quảng gặp nhau.
Đón Quảng với lòng lâng lâng vui sướng, tôi được “làm mẹ” dù đó là đứa con
tôi không có diễm phúc sinh ra. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng vẫn là thứ tình
cảm tiềm ẩn trong tim mọi người đàn bà, khi có cơ hội, sẽ bộc phát một cách tự
nhiên, và tình yêu thương chân thành thì không phân biệt do sanh hay dưỡng dục.
Về tới nhà, sau khi ăn trưa và nghỉ
trưa, tôi đưa Quảng ra phố ghi danh học tiếng Đức, sợ trễ ngày phải đợi khóa
sau mất thời gian. Trường ngôn ngữ mang tên “Thông Dịch” là một trường
tư, giáo viên chuyên nghiệp, giáo trình quy mô đầy đủ, dạy cấp tốc mỗi buổi chiều
hơn hai tiếng với ba trình độ: Một, hai, ba. Mỗi khóa sáu tháng, học phí 3,800
quan Thụy sĩ tương đương gần $4,000. Nghỉ ngơi được một tuần, Quảng bắt đầu nhập
học.
Tiếng Đức rất khó, nhất là văn phạm. Nội
mạo từ vừa giống đực, giống cái, số nhiều, còn có nửa đực nửa cái. Thêm tĩnh từ,
giới từ, trạng từ thiên biến vạn hóa thay đổi luôn theo từng mạo từ và ý nghĩa
của từng câu. Động từ thì biến thể lung tung, lúc nằm đầu câu, lúc cuối câu,
lúc ngược, lúc xuôi, đôi khi nói một hơi quên phứt cái động từ. Ví dụ “Tôi muốn
đi học” nếu tiếng Anh viết “I want to go to school” thì tiếng Đức phải
nói “Tôi muốn học đi” như thế tiếng Anh sẽ viết “I want to school go”.
Đã vậy, một số động từ khi sử dụng còn bị chẻ đôi. Khúc đầu lại ném về cuối
câu, khúc sau thì nằm phía trước. Còn con số như 21 tuổi, thì số 1 đọc trước
nên đôi khi tưởng 12 tuổi, chao ôi, vô cùng rắc rối, khó ơi là khó!
Chưa hết. Thụy Sĩ là một nước nhỏ, diện
tích chỉ 42,300 cây số vuông, dân số gần chín triệu mà nói tới ba thứ tiếng.
Giáp biên giới Pháp nói tiếng Pháp, giáp Ý nói tiếng Ý và giáp Đức, tuy sử dụng
tiếng Đức nhưng ngộ một điều dùng để viết trong lãnh vực hành chánh mà không
nói. Họ chỉ mở miệng nói tiếng Đức khi giao tiếp với người nước ngoài, còn họ với
nhau dùng tiếng Thụy Sĩ, một ngôn ngữ để nói mà không viết. Do vậy, rất khó cho
người tị nạn mới đến định cư vùng nói tiếng Đức. Tuy vậy, nhờ Quảng vốn giỏi tiếng
Anh, lại thêm có khiếu ngoại ngữ, trí nhớ rất tốt nên Quảng… “bơi” kịp, không
đuối.
Trong khi Quảng vật lộn với tiếng Đức,
tôi thăm dò đường đi nước bước cho tương lai Quảng.
Tại Thụy Sĩ, sinh viên đại học chỉ chiếm
6% so với người bản xứ, đối với Việt Nam thì đếm trên đầu ngón tay. Đa số người
tị nạn đến Thụy Sĩ chỉ đi làm ngay hay học nghề. Mà nghề cũng vô vàn nhiêu khê,
ngoài kén tuổi, nội học nghề may, y tá, uốn tóc, làm bánh, bán hàng, sửa xe vớ
vẩn…v.v… đòi hỏi đào tạo từ hai đến ba năm, có khi bốn năm. Thư ký tùy ngành,
đôi khi cần thông thạo hai ngoại ngữ. Thử hỏi đại học sẽ khó thế nào (?). Ngay
từ lớp chín, nhà trường đã sàng lọc khả năng học sinh, ai muốn chọn con đường học
vấn đi lên phải qua một kỳ thi (như bằng Trung học của ta xưa vậy) mới cho lên
lớp mười. Mà ngay lớp mười, học không nổi cũng đẩy ra cho học nghề thôi. Bậc
trung học, đúng mười ba năm (có tiểu bang phải học mười bốn năm) mới chuẩn bị
thi tú tài.
Quảng đã hai mươi tuổi chân ướt chân ráo
đến Thụy Sĩ, tiếng Đức còn i tờ, nên bạn bè, người quen (kể cả cô giáo đang dạy
tiếng Đức) cũng khuyên Quảng, đừng phiêu lưu mơ tưởng chuyện cao xa ở đại học
phí thời gian lại tốn kém, hãy học một nghề cho vững chắc rồi tìm cách đi lên
không muộn.
Đại học Kinh tế St. Gallen, Thụy Sĩ
Riêng tôi hoàn toàn nghĩ
khác. “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Mà khó vì lòng người
ngại núi, e sông” (câu nói bất hủ của cụ Nguyễn Bá Học). Phần nữa, tôi dựa
quá trình học tập của Quảng từ Việt Nam, chỉ vài năm mà có thành quả hơn người,
trò chuyện và xem bài vở Quảng học, tôi đánh giá tiềm năng Quảng sẽ tiến xa
theo cấp số nhân. Tôi thường nói với Quảng: “Đường đi dễ là con đường xuống
dốc. Đường đi khó càng gian nan mới dẫn đến vinh quang”. Và tôi đề nghị Quảng
thử.
Muốn vào đại học tại Thụy Sĩ đối với người
nước ngoài phải qua lớp dự bị học một năm với bốn lần thi sàng lọc. Tốt nghiệp
xong coi như tương đương bằng tú tài. Nhưng ngay lần đầu hay cả lần cuối bị rớt,
đều bị văng ra ngoài.
Để theo kịp lớp dự bị, Thụy Sĩ tổ chức
khóa ba tháng tiếng Đức dạy toàn danh từ chuyên môn, học phí cao ngất ngưỡng.
Tôi đã ghi danh cho Quảng để khi vừa học xong khóa sáu tháng tại trường Thông
Dịch, sẽ có chỗ theo học lớp đặc biệt này.
Sau chín tháng học tiếng Đức, Quảng nhập
học lớp dự bị tại một thành phố khác, cách nhà tôi hơn ba tiếng xe lửa. Đúng
như tôi dự đoán, Quảng đã thong dong trên đường học vấn. Không kể sự khuyến
khích hỗ trợ hết mình của chúng tôi, Quảng cũng nỗ lực không kém. Nhiều đêm Quảng
thức suốt sáng để tra tự điển cho hết chữ khó. Cũng may, Quảng có trí nhớ tốt,
một trí nhớ đặc biệt, hiếm thấy từ những người khác. Quảng học chữ nào nhớ chữ
đó, đọc cuốn sách nào là nhớ luôn nội dung từng trang trong cuốn sách đó, do vậy
cuối cùng, Quảng tốt nghiệp dự bị dễ dàng mà còn là sinh viên giỏi với điểm số
cao.
Khung trời đại học thênh thang mở rộng.
Quảng được phép ghi tên học bất cứ ngành nào theo tiêu chí đại học tại Thụy Sĩ,
không phải thi tuyển, nhưng nhà trường sẽ sàng lọc sinh viên ngay khi đang học.
Mỗi năm mỗi thi, ngoài thi viết còn thi vấn đáp. Sẽ có hai giáo sư lạ cùng một
luật sư “áp đảo tinh thần sinh viên”, họ quay như chong chóng câu hỏi tự
mình bốc lấy. Rớt hai lần là vĩnh viễn không được phép học ngành đó nữa.
Giảng đường Đại học Kinh tế St. Gallen
Quảng ghi danh học kinh
tế, miệt mài ngày đêm với sách đèn. Tôi vốn quý sự học, thấy Quảng chăm chỉ,
siêng năng, tôi ủng hộ hết mình trên mọi phương diện từ vật chất lẫn tinh thần
để Quảng không phải phân tâm bất cứ việc gì. Tôi thương Quảng, quý Quảng như
thương một đứa trẻ mồ côi (xa cha mẹ từ nhỏ) thiếu sự chăm sóc của gia đình, biết
vươn lên từ gian khổ.
Và để đáp lại sự mong đợi của mọi người,
nhất là tấm lòng tôi, Quảng chẳng những theo đuổi kịp đại học mà còn là sinh
viên xuất sắc! Sau một thời gian theo học, Quảng tốt nghiệp đại học với văn bằng
danh dự. Với số điểm cao, Quảng được phép tiếp tục ghi danh nhập học lấy chương
trình tiến sĩ tại trường Đại học Kinh tế St. Gallen, một ngôi trường nổi tiếng
xếp hạng thứ tư của Âu châu năm 2019, đứng đầu với ngành Quản trị.
Vào đúng ba mươi tuổi, Quảng cầm về mảnh
bằng tiến sĩ kinh tế với điểm hạng cao. Chỉ tiếc là, ngày vinh quang của Quảng,
ông nội đã qui tiên để không chứng kiến được thành quả của con cháu mình.
Thụy Sĩ – 01, 2022
No comments:
Post a Comment