Bà Sương Nguyệt Ánh
Sáng nay công cụ tìm kiếm Google hiện thị hình ảnh của bà Sương Nguyệt Anh nhằm
kỷ niệm ngày sinh của bà 01/02/1864.
Ngay giữa Q1, Sài Gòn có con đường được đặt
theo tên bà là Sương Nguyệt Anh, nhưng chả biết vì sao, ngay cả những người đã
sống ở Sài Gòn rất lâu rồi cũng toàn gọi là đường Sương Nguyệt Ánh
Bà Sương Nguyệt Anh (1864 - 1922) sinh tại xã
An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư (cho nên trong gia tộc
thường gọi bà là Năm Hạnh) của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Mẹ là bà Lê Thị Điền,
người làng Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Khuê
(theo "Nguyễn chi thế phổ"), nhưng tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn
Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều
bút hiệu khác như Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...
Năm 1888, bà Sương Nguyệt Anh được 24 tuổi thì
cha mất. Tri phủ Ba Tường - ông Phủ Xuyên đến hỏi bà làm vợ không được nên mang
lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại. Để tránh tai họa, bà cùng gia đình người
anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ
nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở góa vợ tên
Nguyễn Công Tính (có sách ghi Nguyễn Công Trinh, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Công
Tín), sau đó sinh được cô con gái là Nguyễn Thị Vinh.
Cuộc hôn nhân đẹp đẽ đã sớm kết thúc bi thảm
khi ông Tính bị Phủ Xuyên âm mưu sát hại. Chồng chết khi con gái vừa tròn 2
tuổi, bà tuy mới 30 nhưng quyết không đi thêm bước nữa, thủ tiết nuôi con, thờ
chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Cũng từ đó,
bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "Sương", thành "Sương
Nguyệt Anh", có nghĩa là "Nguyệt Anh góa chồng".
Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông
Du của Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học
sinh xuất dương sang Nhật du học.
Năm 1917, bà Sương Nguyệt Anh được một nhóm
chí sĩ yêu nước mời làm chủ bút tờ "Nữ giới chung" nghĩa là
"Tiếng chuông của nữ giới".
Đây là tờ báo đầu tiên dành cho những vấn đề
của nữ giới ở Việt Nam. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1/2/1918, với chủ trương
nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương, đề cao vai trò phụ nữ trong xã
hội.
Trong số mở đầu, bà chủ bút nói rõ mục đích
của tờ báo là truyền bá chữ Quốc ngữ, nâng cao luân lý, dạy cách sống hằng
ngày, chú trọng đến thương mại và tiểu công nghệ, tạo sự tiếp xúc giữa những
con người với nhau…
Suốt 20 số báo, bà Sương Nguyệt Anh dành trọn
cả tài năng và tâm huyết của mình để góp phần làm chấn hưng tinh thần nữ giới
nước nhà. Chính vì những số báo phát hành đều đề cập đến việc dạy nữ công, đức
hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe với nữ giới thời đó, đồng thời chủ
trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ.
Ngòi bút của bà Sương Nguyệt Anh dù có khéo
léo đến đâu thì tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Sau
gần một năm hoạt động, xuất bản được hơn 20 số báo, tháng 7/1918, tờ báo đã bị
chính quyền thuộc Pháp buộc đình bản.
Sau đó, mắt bà bị bệnh thường xuyên đau nhức
và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, bà Sương Nguyệt Anh dẫn
cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là
Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị
mù lòa hẳn.
Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc
thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn.
Sáng sớm 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức ngày
9/1/1922), do sức khỏe quá yếu, bà Sương Nguyệt Anh trút đã hơi thở cuối cùng,
thọ 58 tuổi.
Lúc đầu, mộ bà Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về
sau (năm 1959) được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà,
tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
Đỗ Minh Hồ Hải
No comments:
Post a Comment