Làng Tôi
*** Hàn Thiên Lương
Có một người thường đi du lịch , đã đi
khắp bốn phương trời, tình cờ được hỏỉ:”-Thầy đi nhiều vậy Thầy thấy nơi
nào đẹp nhất?”
Người ấy nhanh nhẩu trả lời rằng:
”không có nơi nào đẹp hơn
quê hương ta!”
Thật sự tôi rất tâm đắc về câu nói nầy!
Quê hương tôi là nước Việt Nam đã chìm đắm trong chinh chiến điêu linh, nay tuy
có nét hào nhoáng bên ngoài, tựu trung vẫn còn bị kềm kẹp xích xiềng. Quê tôi
cũng là một làng nhỏ nằm sát biên giới Việt Miên, làng Hiệp Hòa , đã từng đổ
nát điêu tàn! Nay đang sống cuộc đời viễn xứ,tôi xa cách làng quê vạn dặm, nhưng
hình ảnh thôn trang yêu dấu đó luôn đậm nét trong hồn tôi!
Ai có đứng trên sông Vàm Cỏ Ðông một chiều
nắng phai, sẽ thấy sông nước mênh mông, khói lam chiều nhẹ tỏa xa xa bên kia
biên giới, tâm hồn như trải rộng ra, ta sẽ thương nhớ mênh mông, thương người
xưa đi mở đật, thương những người mới đây ngã xuống vì kiên trì giữ đất!
Làng quê tôi nương mía bạt ngàn, nổi tiếng
với hảng đường Hiệp Hòa. Thuở còn học lớp tiểu học, mỗi lần thầy nói đến công
nghiệp Ðông Dương, thầy luôn kể đến dệt Nam Ðịnh, đường Hiệp Hòa. Lúc đó tôi hảnh
diện lắm, tôi nói với bạn ngồi bên cạnh:
” Hiệp Hoà là làng của tao
đó”
Những nương mía quê tôi thì bạt ngàn,
kinh mương ngang dọc chi chít, nên có những cầu tre lắt lẻo. Cầu tre lắt lẻo gập
ghềnh khó đi nhưng tình tứ thơ mộng. Ðứng trên cầu tre nhìn xuống dòng kinh
xanh biếc, hoa súng đủ màu nhấp nhô như cười cợt như đón cháo khách qua cầu. .Hồi
hộp nhất lúc chân bám vào thanh tre thân cầu, tay nắm vào sà tre dọc, tay trái
nắm tay cô bạn gái cùng xóm để dìu giúp cô qua cầu. Ôi chao bước được xuống cầu,
thở một cái phào, nhìn cô, cô e thẹn!
Tôi bất chợt nói:-“Chà , nói té xuống
kinh, không biết ai vớt ai cô nhỉ”.
Cô cũng làm thinh , nhưng mặt cô đỏ hồng
lên! Niềm vui đó có phải là nét đẹp quê hương, sao không bao giờ phai nhạt
trong tôi!?
Làng quê tôi không chỉ có mía, những
cánh đồng hai bên đường trải thảm xanh, đó là những cánh đồng lúa mênh mông. Ðó
là những cánh đồng đậu phộng, mịn như nhung, điểm hoa vàng, nhìn xa như những
cánh bướm vàng rực rỡ. Các cô thiếu nữ tưới đậu trong chiều nắng phai, xa xa
nghe chàng trai nào đó trêughẹo :
“Cô kia tưới đậu bên đàng
Cô đừng tưới ướt hoa vàng của
tôi”
Cô cũng tinh nghịch đáp lại:
“Hoa vàng hãy cất trong lầu
vàng
Cớ sao lại vất bên đàng hởi
ai”
Những lời hát tình tứ như vậy là tiếng
lòng sống động của làng quê tôi.. Ai cũng có nụ cười hiền hoà, đẹp nhất là mối
tình quê thuở đầu đời, những niềm vui nhỏ mong manh nhưng khó quên!
Riêng tôi còn nhớ, một hôm mẹ tôi bị cảm
, Cha tôi bảo tôi qua chợ Rạch Nhum bổ cho mẹ tôi một thang thuốc. Tôi đội nón
đi lúc mặt trời chưa mọc, đi ngang qua nhà cô Tỵ,người yêu của tôi, thấy cô
đang loay hoay trong mấy rò dưa leo, tôi bèn bỏ nón trên bờ đê vào hái dưa với
cô.. Cứ giỏ đầy tôi kéo cô đẩy.Có lần tôi kéo mạnh quá, Tỵ ngã chúi vào người
tôi. Phản ứng tự nhiên tôi ôm nàng, tóc nàng bung xỏa vào mặt tôi, nhưng nàng
gượng
dậy.Tôi hỏi Tỵ”-Em gội đầu bằng xà
phòng xả hả?”
Tỵ đáp:”-dạ xà phòng xả’
Tôi cười và nói:”Vây em là bà xã của
anh nhé”
Tôi vừa dứt lời thì Tỵ nhanh miệng:”-cầu
trời được như vậy hở anh”
Tôi im lặng, không đáp nhưng nhưng đồng
tình với niềm thương yêu tràn ngập trong lòng tôi!
Ngay khi đó nghe tiếng cha tôi:”:Tâm
còn ở đó hả? Mặt trời qua khỏi ngọn tre rồi mà còn ở đây. Con bổ thưốc về tới
nhà chắc mẹ con chết rồi!”
Nghe vậy tôi vội vàng chui ra rò dưa leo
và đáp:”-Dạ để con đi”.
Tôi chạy luôn một mạch, quên hẳn còn bỏ
lại chiếc nón trên bờ đê và người yêu của tôi đang ngồi im ẩn trong rò dưa leo!
Buổi chiều gặp lại Tỷ cười và trêu tôi:”-sáng
về có bị đòn không anh”
Tôi đáp:- không, ba hiền lắm!
Tỵ nắm chặt tay tôi và nói:”- đời
con gái thương chồng cũng mong cha mẹ chồng hiền đó anh”.
Thuở đó vào những năm 1957 1958 là thuở
bình yên nhất của quê hương miền Nam, và chúng tôi cảm nhận được hạnh phùc tràn
đầy. Thường những ngày giáp Tết tôi
và Tỵ chèo xuồng ba lá đem hàng ra chơ Rạch
gốc. Lúc trở về xuồng lướt nhẹ trên dòng kinh, chúng tôi cho thuyền len lỏi vào
các kinh mía. Các luống mía đã trổ cờ nên rất cao và che rợp
dòng kinh, tiếng kêu ríu rít của các con
chim nhỏ( gồm chim sẻ sắc ô, dòng dọc, áo già manh manh,… dân địa phương gọi là
chim mía) đang bắt các con côn trùng có cánh bay quanh cờ
mía để hút mật, thật một hoạt cảnh vui mắt
vui tai. Thuyền cứ trôi ,trôi mãi nhiều lúc trôi lạc vào cụm rừng tràm thấp ,
dân địa phương gọi là rừng tràm rau râm. Hoa tràm nở trắng xóa, hương
tràm toả ngát làm chúng tôi ngây ngất, hồn
chúng tôi cũng xiêu đổ theo gió nhẹ mùa xuân!
Ðó là hạnh phúc buổi đầu đời nhưng rất
ngắn ngủi, những điều mơ ước như bèo mây, vì chỉ vào năm 1960, bọn Việt Cộng xuất
hiện từng đêm; Gia đình tôi rút êm lên Saigon, riêng gia đình của Tỵ không có đủ
hoàn cảnh để đi sớm.
Một đêm du kích Việt Cộng bắt thanh niên
thiếu nữ đi đào đường đắp mô, trúng mìn chúng gài, gây tử thương bảy người
trong đó có Tỵ. Nàng chết trong niềm cô đơn xa vắng, người yêu cũng không thể
trở về thắp cho nàng một nén hương!
Ngược lại thời gian những năm 1945,
1946, 1947, nhớ lại thật khủng khiếp. Khi Pháp trở lại xâm lăng Việt Nam, toàn
dân đứng lên đáp lời sông núi.Cán bộ Cộng Sản nắm chặt phong trào Việt Minh nên
việc giết chóc xãy ra hằng ngày! Họ đưa ra chính sách tiêu thổ kháng chiến: các
nhà ngói bi triệt hạ, sợ Tây lấy làm đồn bót. Các nhà giàu đều bị Việt Minh viếng.
Nhìn chung nhà các ông Hội Ðồng, Cai tổng , viên chức hội tề… đều tan nát, các tín
đồ Cao Ðài bị tàn sát!
Sau Tết Mậu Thân, nhiều người dân trong
làng phải khổ sở vì mấy tên du kích. Số là quân đội VNCH truy kích quân Cộng Sản,
phát hiện được nhiều hầm vũ khí giấu sát bờ mương, góc rào cạnh nhà dân. Người
dân nào có nhà gần hầm vũ khí bị phát hiện sẽ bị bọn du kích nghi là chỉ điểm
và bị tra hỏi không may có thể bị chúng sát hại! Ðiển hình nhà bà Sáu Trang ,
sát bên rào, lính Quốc gia phát hiên một hầm đạn B40 do VC cất giấu, thế là đêm
về bọn du kích đến bắt bà tra tấn…Sau nầy bà bị bệnh tâm thần chết vào năm
1976. Trước khi chết mấy tháng bà cứ lôi Việt Cộng ra chửi. Dân chúng trong thôn
xóm điêu tàn, đang đói khổ được cười thầm…thỏa lòng như được bà Sáu chửi thế
cho mình vậy!
Với nét bút đơn sơ tôi chi phác họa niềm
đau khổ của làng quê tôi. Hiệp Hòa, một làng quê êm ả hiền hòa, ghi vào lòng
tôi một dấu ấn yêu thương tuyệt vời. Một xóm làng chìm đắm trong chinh chiến
điêu linh, nay còn quằn quại trong gông cùm Cộng sản! Mảnh đất đó nay đang ôm
chặt thân xác mẹ tôi. Quên sao được , cũng trên mảnh đất đó, mồ người yêu của
tôi đang quạnh hiu bên bờ suối âm u, những rừng tre quanh năm rì rào xanh bóng
lá, tựa hồ lòng tôi luôn luôn âm vang lời của Tỵ như lời nguyền yêu thương đến
chết!
Hàn Thiên Lương
No comments:
Post a Comment