Nhà thơ Hoàng Hương Trang giữa thập niên 1960 có dạy tại trường
Nguyễn Huệ Tuy Hòa..Chị đã từ trần hôm 15-4 và hỏa táng đem về Huế chôn cất.
Xin tin cho các đồng nghiệp và các học trò
Nguyễn Huệ lơn tuổi (70 trở lên )được biết.
Nguyện linh hồn chị được tiêu diêu miền
Cực lạc
Nam Mô A Di Đà Phật
Huế 17-4-2020
Trần Công Tín
Xem bài viết sau của Nguyễn Phú yên
VĨNH BIỆT NỮ SĨ HOÀNG HƯƠNG TRANG (Cô HOÀNG THỊ DIỆM PHƯƠNG)
Tin từ Long Xuyên cho
hay Nữ sĩ Hoàng Hương Trang đã từ giã cõi đời vào lúc 6g sáng hôm qua 15-4 và
được hỏa táng vào lúc 16g chiều hôm nay 16-4-2020, hưởng thọ 84 tuổi. Chị bị
ung thư gan giai đoạn cuối nhưng bản thân chị không hay biết. Chỉ mấy hôm trước
chị cho biết người rất mệt sau khi đi khám bệnh ở Bệnh viện Long Xuyên trở về.
Tro cốt sẽ được đưa về Huế và chôn tại ngôi mộ trên một ngọn đồi do chị tự lập
từ năm 2011.
Nữ sĩ Hoàng Hương
Trang tên thật Hoàng Thị Diệm Phương, sinh năm 1938 (khai lùi tuổi), quê quán
làng Vân Thê, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên-Huế, là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ,
nhạc sĩ nổi tiếng ở Miền Nam trước và sau năm 1975. Chị xuất bản tập thơ “Khép
đôi mi nhỏ” vào năm 1956, lúc chị 18 tuổi. Thật ra chị làm thơ từ năm 12 tuổi;
có lần nhà thơ Hồ Đình Phương đem thơ của chị đăng báo Đời Mới, Thẩm Mỹ ở Sài
Gòn khiến nhiều người tưởng chị là cô gái tuổi đôi mươi.
Chị Hoàng Hương Trang,
cựu nữ sinh Đồng Khánh, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế (khóa 1) năm 1960, Sư
phạm Mỹ thuật Sài Gòn năm 1961, có học bổng du học Nhật, cựu giáo sư các trường
trung học Ngô Quyền (Biên Hòa), Nguyễn Huệ (Phú Yên), Kiểu Mẫu (Thủ Đức)… và
Trường Đại học Mỹ thuật Gia Định, Sài Gòn. Hội viên Trung tâm Văn bút Việt Nam.
Sáng lập và đề xướng công cuộc xây dựng "Rừng Phong Châu, Núi Việt, Bia
Hùng", là họa sĩ đầu tiên sáng tạo trường phái phối hợp giữa họa và thơ
được mệnh danh "Thủ Bút Họa".
Tác phẩm: Khép đôi mi
nhỏ (1956), Linh hồn cỏ biếc (1965), Bến tâm hồn (1966), Thơ - Đông Phương
(1967), Hợp tấu (1967), Mười hướng sao (1970), Túy ca (1972, Thư Ấn Quán tái
bản năm 2008). Chị đăng thơ trên nhiều tờ báo như Phổ Thông, Bách Khoa, Văn,
Hoa Tình Thương, Tiểu Thuyết Tuần San, Phụ Nữ Mới, Bút Hoa, Gió Nam, Quật
Khởi,Văn Nghệ Đông Nam Á… Chị có nhiều bạn bè và học trò, từng gặp gỡ cụ Giản
Chi, Nguyễn Hiến Lê, NS Lê Thương, NS Tuấn Khanh và Phạm Duy, nhà thơ Nguyễn
Đình Thi… có tên trong Thi nhân Việt Nam thế hệ 1954-1973 (2 tập của Nguyễn Tấn
Long, Phan Canh, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1974).
Năm
1972, khi chị in tập thơ “Túy ca”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương - tác giả tập “Thơ
say” - với tấm lòng liên tài đã làm bài thơ "Cảm đề Túy ca" tặng chị:
“Bài ca Tận túy” đi
hoang
Biết đâu Hoàng lại gặp
Hoàng chiều nay
Vẽ nên độc dược mà say
Hóa công chưa dễ khéo
bày đặt hơn
Gió trăm cơn bụi ngàn
cơn
Một cơn say đủ sạch
trơn thế tình
Nguyện trường túy bất
nguyện tinh
Say ai? Mình chỉ say
mình đó thôi
Túy-ca bè đã thả rồi
Túy-hương xưa hãy cùng
trôi ngược về.
Sau 1975, chị là hội
viên Hội Nhà văn VN, in chung trên 30 tuyển tập thơ văn trong và ngoài nước.
Chị sinh hoạt ở CLB Văn nghệ sĩ Gia Định, nơi qui tụ nhiều tên tuổi của Sài Gòn
như các nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ Tường Linh, Tô Kiều Ngân, Song Nguyên, Vũ Hối,
Sông Trà, Châu Kỳ, Trầm Tử Thiêng, Trúc Phương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng,
Thanh Sơn, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Túy Hoa, Túy Phượng, Ngọc Huệ, Mai Khanh,
Mai Trâm, Đoàn Yên Linh, Mai Hiên, Trần Thiết Hùng (em trai của Vân Sơn - một
trong ba thành viên ban AVT, đã nhảy sông tự tử tại cầu Thị Nghè sau 1975)…
Năm 1976, chị được gia
đình nhà thơ Vũ Hoàng Chương tin cậy gửi gắm để lưu giữ 12 bài thơ cuối cùng
của nhà thơ, sau này đã được in ở hải ngoại. Năm 2006, nhân ngày giỗ lần thứ 30
của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Hoàng Hương Trang cũng làm bài thơ "Chiều say
nhớ Hoàng" thương tiếc nhà thơ tài danh này:
“Biết đâu Hoàng lại
gặp Hoàng chiều nay”
Mới vừa dăm chén đã
say
Trong men chếnh choáng
nhớ ngày năm xưa
Bút gươm chém lệch
đường thơ
Mực đau giấy ảo, kịch hờ
thương Mây
Trả gươm cho gió
nghiêng vai
Trả thơ cho mộng, trả
ngày cho đêm
Kiều Thu, hề! Đẫm gót
sen
Mười hai tháng sáu trả
men cho tình
Trời một phương, đất
một mình
Cảm thông nhân thế cái
tình phù du
Tài hoa hệ lụy sa mù
Chén vui, hề! Chén
buồn xưa hiện về
Ơi Hoàng, nửa chén si
mê
Ơi Hoàng, nửa chén
vụng về trao tay
Rượu đây, hề! Ta cứ
say
“Biết đâu Hoàng lại
chiều nay gặp Hoàng”.
(Sài Gòn, 10-10-2006)
Chị là con nuôi của
kịch tác gia Vi Huyền Đắc (1899-1976). Cụ là Phó chủ tịch Trung tâm Văn bút
Việt Nam, người từng được giải thưởng của Viện Hàn lâm Nice, Pháp năm 1936 với
vở Eternels Regrets (Trường hận) và giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn năm 1938
với vở Kim Tiền. Sau năm 1975 cụ trở về Hà Nội được một thời gian thì cụ buồn
chán, lặng lẽ tuyệt thực và qua đời vào tháng 8-1976. Đám tang do nhà văn
Nguyễn Tuân đứng ra tổ chức và nhà thơ Thế Lữ đọc điếu văn. Trước khi về Bắc,
cụ để lại căn nhà cho chị Hoàng Hương Trang. Thời bao cấp khó khăn, chị bán hai
phần ba căn nhà, phần còn lại chị ở có một mình. Chị thường bảo “chơi văn, ăn
vẽ”, bởi nguồn sống của chị là từ các tranh vẽ bán được trong mấy chục năm ở
Sài Gòn. Trong bài thơ "Tám mươi dư" gửi cho La Thụy, chị nhìn lại
đời mình:
Thơ hơn chục cuốn, vạn
bài
Văn ngoài dăm quyển,
ngàn trang
Họa sáu mươi niên, dư
vài trăm bức
Nhạc điểm xuyết mấy
khúc ca
Ngâm nga gần bảy chục
năm, Tao Đàn nổi tiếng
Hát hò chưa ca sĩ, bạn
bè vẫn vỗ tay khen…
Bạn bè khắp năm châu
bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen
Học trò trong nước
ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí
thiết
Giao du cuối đất cùng
trời, từ Âu sang Á…
(Sài Gòn, 2017)
Xin giới thiệu bài thơ
về Huế của chị:
HUẾ TÌNH ĐẦU
Ai xa Huế mà không nhớ
Huế
Nhớ chuông chùa Diệu
Đế, nhớ Văn Lâu
Nhớ Trường Tiền da
diết sáu nhịp cầu
Nhớ Kim Long, nhớ bến
đò Thừa Phủ.
Nhớ dốc Nam Giao, nhớ
bờ sông Bến Ngự
Nhớ Hàng Bè, Thượng
Tứ, nhớ Bao Vinh
Nhớ sông Hương chan
chứa thiết tha tình
Nhớ thông reo đỉnh Ngự
Bình gió mát.
Nhớ Tịnh Tâm, hồ sen
bát ngát
Nhớ đò Cồn, An Cựu,
Chợ Dinh
Nhớ con đường Vỹ Dạ
bóng cây xanh
Nhớ Gia Hội, Đông Ba,
Hàng Me, Đập Đá.
Nhớ Ngự Viên, nhớ Nội
Thành, Mang Cá...
Huế của ta ơi, biết
nhớ mấy cho vừa!
Ai xa Huế mà không
thương Huế
Thương mẹ già lặn lội
mùa Đông
Thương em thơ đi học
mưa dầm
Thương chị, thương anh
mùa hè cháy nắng
Thương bữa cơm nghèo,
nồi canh mướp đắng
Thương dĩa mắm cà, con
cá thệ kho khô...
Huế của ta ơi, thương
biết chừng mô!
Ai xa Huế mà không mơ
về Huế
Dạo bước trên cầu áo
trắng tung bay
Vành nón nghiêng
nghiêng che mái tóc mây
Ánh mắt trong veo dòng
Hương gợn sóng
Đêm trăng hè trời cao
lồng lộng
Chiều thu êm tím ngát
cả không gian
Tiếng hò trên sông ngơ
ngẩn bàng hoàng
Hò ơ hò... chiều chiều
trước bến...
Mơ sớm mai chèo đò qua
cồn Hến
Trái bắp tươi non, nấu
chén chè thơm
Dĩa bánh bèo tôm chấy
hồng ươm
Đợi cơm hến, bánh
canh, bánh ướt...
Nhớ biết mấy, những
món quà quê hương
không gì thay thế được
Dải đất quê nghèo mà
mặn nồng yêu thương
Ai đã từng uống nước
sông Hương
Ai đã từng hưởng ngọn
gió chiều đỉnh Ngự
Ai đã từng bước đi
trên những con đường tình tứ
Ai đã thả hồn trên
những chiếc võng âm thanh
Ai đã đắm say tình Huế
quê mình
Dẫu xa xôi mà không mơ
về Huế
Huế tình đầu thơm
ngát, Huế yêu ơi!
Hoàng Hương Trang
No comments:
Post a Comment